TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO
TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH
( Majhima Nikàya )
Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli
Chuyển thể Thơ :
Giới Lạc MAI LẠC HỒNG tự TUỆ NGHIÊM
( Huynh Trưởng Cấp Tấn - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )
Email : honglacmai1@yahoo.com
140. Kinh GIỚI PHÂN BIỆT
( Dhàtuvibhanga sutta )
Như vậy, tôi nghe :
Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả
Ngự đến Ma-Ga-Thá, tức là
Vương quốc tên Ma-Kiệt-Đà, (1)
Vương Xá – Ra-Chá-Ga-Ha (2) Thành này.
Một hôm Ngài đến nhà của gã
Phất-Ga-Vá (3) thợ gốm, nói là :
– “ Này thợ gốm Phất-Ga-Va !
Nếu không phiền phức việc nhà của ông,
Ta muốn ở chỗ ông một tối ”.
– “ Xin hãy tới, bạch Đức Phật Đà !
Không gì phiền phức xảy ra,
Nhưng có một vị xuất gia trước rày
Đã ở đây, và nếu vị ấy
Thỏa thuận, thì Ngài hãy tự nhiên ”.
Lúc ấy Tăng-sĩ thanh niên
Thiện gia nam tử do duyên tín thành
Y cứ vào tịnh thanh Phật Bảo
Đã từ bỏ gia đình, xuất ly
Tên là Búc-Kú-Sa-Ti (4)
____________________________
(1)& (2) : Thành Vương Xá – Rajagaha thuộc vương quốc Ma-
Kiệt-Đà – Magadha của vua Bimbisara (Tần-bà-sa-la) và
sau là vua Ajatasattu (A-xà-thế).
(3) : Người thợ gốm tên Bhaggava. . (4) : Tăng Sĩ tên Bukkusati.
Vị ấy đến trước, hiện thì trú đây.
Đức Như Lai đến gặp Tăng-sĩ
Là Búc-Kú-Sa-Tí, hỏi y :
– “ Tỷ Kheo ! Nếu không có gì
Khiến cho phiền phức hành trì của ông
Ta muốn ở đây trong một tối ”.
– “ Không có gì bất lợi cho tôi.
Trú xứ cũng rộng rãi thôi !
Tôn-giả có thể dạ thời ở đây ”.
Đức Thế Tôn bước ngay vào chỗ
Thuận tiện rồi trải cỏ ngồi lên,
Kiết già lưng thẳng tâm yên
An trú chánh niệm suốt đêm như vầy.
Tăng-sĩ này – Búc-Kú-Sa-Tí
Cũng chăm chỉ ngồi thiền như Ngài.
Thế Tôn suy nghĩ như vầy :
“ Vị thiện gia nam tử này xem ra
Có vẻ tín thành và tinh tấn
Nay Ta nên phỏng vấn vị này ”.
Rồi Ngài hỏi Tăng-sĩ ngay :
– “ Tỷ Kheo ! Y cứ vào ai để mà
Ông xuất gia ? Đạo Sư ai vậy ?
Ông chấp nhận pháp dạy của ai ? ”.
– “ Thưa Hiền-giả ! Đó là Ngài
Kiều Đàm Thích tử sâu dày, tinh hoa
Xuất gia từ Thích Ca vương tộc
Tiếng đồn tốt đã được truyền đi :
Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri,
Bậc Minh Hạnh Túc, bậc Tri & Kiến toàn
Bậc Thiện Thệ, Thế Gian Giải quý,
Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Bậc Thế Tôn, Thiên Nhân Sư,
Phật Đà Toàn Giác đại từ vị tha.
Nên tôi đã xuất gia, y cứ
Bậc Thế Tôn Điều Ngự tuyệt vời,
Ngài là Đạo Sư của tôi,
Tôi chấp nhận pháp từ nơi Phật Đà ”.
– “ Tỷ Kheo ! Vị Đại A-La-Hán
Chánh Đẳng Giác trú xứ đâu là ? ”.
– “ Thưa Hiền-giả ! Đức Phật Đà
Tại nơi Chê-Tá-Vá-Na – Kỳ Hoàn
Thành Xá-Vệ Ngài đang an trú ”.
– “ Này Phích-Khú ! Ông đã thấy qua
Bậc Thế Tôn, đấng Phật Đà ?
Nếu thấy, ông có nhận ra chính Ngài ? ”.
– “ Thưa Hiền-giả ! Tôi đây chưa thấy,
Và nếu thấy, tôi không nhận ra ”.
Đức Thế Tôn suy nghĩ là :
“ Thiện gia nam tử xuất gia như vầy
Y cứ vào Như Lai tín mãn
Vậy Ta hãy thuyết giảng cho y ”.
Ngài bảo Búc-Kú-Sa-Ti :
– “ Hãy nghe, nghiệm kỹ những gì nghe đây ”.
– “ Thưa Hiền-giả ! Xin Ngài hãy giảng ”.
Tăng sĩ này ngoan ngoãn vâng theo.
Phật liền giảng : “ Này Tỷ Kheo !
Sáu giới, xúc xứ cũng đều sáu sanh,
Bốn thắng xứ, ý hành thập bát, ( 18 )
An trú đạt, vọng tưởng đứng yên,
Vọng tưởng không chuyển động, liền
Vị ấy sẽ được gọi riêng là vì
‘Ẩn sĩ tịch tịnh’ khi hành thế.
Chớ buông lung trí tuệ mọi thì
Chân đế phải được hộ trì,
Tăng trưởng huệ thí, hành trì chánh chân,
Hãy tịch tịnh tu. Phần tổng thuyết
Về ‘sáu giới phân biệt’ là đây.
Tỷ Kheo ! Khi được nói vầy :
‘Người này có sáu giới’ đây, do gì
Được nói đến điều ni như vậy ?
Địa & thủy & hỏa giới ấy, cùng là
Phong & không & thức giới kể ra,
Bảo : ‘Người có sáu giới’ là duyên đây.
Được nói đến như vầy, thứ tự :
‘Người có sáu xúc xứ’, duyên gì
Mà được nói đến như vầy ?
Nhãn & nhĩ & tỳ-xúc-xứ hay các phần
Thiệt-xúc-xứ và thân-xúc-xứ,
Ý-xúc-xứ. Do duyên như vầy.
Khi được nói đến điều đây :
Có ‘mười tám ý hành’ này, do đâu ?
Do duyên gì nói vào như vậy ?
Khi mắt thấy sắc, chạy theo ngay
Chỗ trú xứ của hỷ này,
Theo sắc, chỗ trú xứ rày của ưu,
Chạy theo sắc, chỗ lưu trú xả.
Khi tai nghe tiếng lạ, du dương
Hay khi mũi ngửi mùi hương
Hoặc lưỡi nếm vị, thân thường xúc thôi !
Ý nhận thức pháp, rồi người ấy
Cứ chạy mãi theo lục trần này
Chỗ trú xứ hỷ, ưu – hay
Chỗ trú xứ của xả đây. Như vầy
Có sáu hỷ hành , hay có cả
Sáu ưu hành, sáu xả hành vầy.
Khi được nói đến : ‘Người này
Có mười tám ý hành’ đây, chính là
Do duyên này nói ra như vậy.
Khi nói đến : ‘Người ấy có ngay
Bốn thắng xứ’, do sao vầy ?
Là Tuệ & Đế-thắng-xứ đây, cùng là
Huệ-thí và Tịch-tịnh-thắng-xứ.
Nói : ‘Có bốn thắng xứ’ chính là
Do duyên này được nói ra.
Này Chúng Tăng ! Khi nói qua điều là :
‘Chớ có mà buông lung trí tuệ’,
‘Hãy hộ trì chân đế’, cùng là
‘Hãy tăng trưởng huệ thí’, và
‘Tu học tịch tịnh’. Sao là duyên trong ?
Sao là không buông lung trí tuệ ?
Có sáu giới được kể, đó là
Địa & thủy & hỏa giới, cùng là
Phong & không & thức giới. Sao là ‘đất’ đây ?
Có nội địa giới này và có
Ngoại địa giới. Điều đó thế nào
Là ‘nội địa giới’ thuộc vào ?
Cái gì thuộc nội thân, vào cá nhân
Kiên cứng phần, thô phù, chấp trước
Như băm hai thể trược, kể qua
Là tóc, lông, móng, răng, da,
Thịt, gân, xương, tủy, ruột già, ruột non,
Hoành cách mô và còn tim, thận,
Gan, lá lách, phổi, phẩn vân… vân…
Và các vật khác thuộc phần
Nội thân hoặc thuộc cá nhân, thô phù,
Cứng chắc, bị khư khư chấp thủ
Gọi đầy đủ ‘nội địa giới’ vầy.
Những gì thuộc hai giới này
Đều thuộc địa giới, hiểu ngay như vầy.
Địa giới này phải quán sát với
Như thật, bởi chánh trí tuệ, thời :
‘Cái này không phải của tôi’,
‘Cái này không phải là tôi’, đồng thời
‘Nó không phải của tôi, tự ngã’.
Sau khi đã quán sát như chân
Địa giới với trí tuệ, dần
Sanh yểm ly đối với phần đất đây.
Và tâm từ-bỏ ngay địa giới.
Các Tỷ Kheo ! Thủy giới thế nào ?
Thủy giới có hai loại sau :
Nội & ngoại-thủy-giới thuộc vào nội thân,
Thuộc cá nhân, thuộc chất lỏng, nước
Bị chấp trước. Như mật, máu – rồi
Mủ, mỡ, nước mắt, mồ hôi,
Nước miếng, nước mũi, nước nơi khớp gì,
Nước tiểu và bất kỳ vật khác
Thuộc nội thân, nước hoặc lỏng vầy.
Thế nào hỏa giới ở đây ?
Nội & ngoại-hỏa-giới cả hai, thuộc về
Nội thân và thuộc về chất lửa
Chất nóng chứa, bị chấp thủ ngay
Như thân nhiệt hâm nóng này
Khiến cho hủy hoại, đêm ngày đốt thiêu
Khiến cho nhiều vật ăn, uống cả
Nhai, nếm… khéo tiêu hóa, lưu thông.
Đó là hỏa giới ở trong ( nội hỏa giới )
Cả hai hỏa giới thuộc trong hay ngoải
Thì cả hai đều thuộc hỏa giới.
Còn phong giới được hiểu thế nào ?
Nội & ngoại phong giới thuộc vào ?
Về nội-phong-giới thế nào giải phân ?
Thuộc nội thân, cá nhân, thuộc gió,
Thuộc tánh động và có chấp nê.
Như gió thổi trong nhiều bề
Thổi lên thổi xuống tràn trề khắp thân,
Gió trong ruột xuống dần bụng dưới,
Thổi ngang tới các đốt, khớp xương,
Hơi thở vô, ra thường thường
Và mọi vật khác cũng dường như phong,
Đây được gọi ‘nội phong giới’ đấy.
Những gì thuộc nội & ngoại phong đây
Đều thuộc phong giới như vầy.
Sao là hư-không-giới này nêu ra ?
Thế nào là nội hư không giới ?
Cái gì mà nói tới nội thân,
Thuộc hư không, thuộc cá nhân,
Thuộc hư không tánh, bị phần chấp ngay
Như lỗ tai, lỗ mũi, cửa miệng,
Cái gì khiến ăn, uống, nuốt, nhai.
Tại chỗ những gì được nhai,
Được giữ lại, ngang qua vài nơi đâu.
Những gì sau được ăn, được uống,
Được nếm, được tống xuất xuống phần
Bên dưới để thải khi cần,
Và bất cứ vật thuộc phần ở trong
Thuộc hư không, thuộc hư không tánh
Và bị chấp thủ mạnh, nặng nề,
Nội hư không giới thuộc về.
Nội & ngoại hư không giới bề ngoài, trong
Đều thuộc về hư không giới cả.
Hư không giới được tả ở đây
Phải quán sát như-thật vầy
(Với chánh trí tuệ) : “Cái này thật ra
Không phải là của tôi, vả lại
Cái này cũng không phải là tôi,
Không phải tự ngã của tôi”.
Sau khi như thật quán rồi điều ni
Vị ấy sinh yểm ly đối với
Hư không giới, tâm diệt trừ ngay.
Và lại nữa, Tỷ Kheo này !
Khi mà Thức còn lại này tịnh thanh,
Trong trắng, vị ấy nhanh biết tới
Một số sự việc bởi thức này.
Thức tri được lạc & khổ đây,
Thức tri bất khổ & lạc. Này Tỷ Kheo !
Lạc xúc, lạc thọ đều duyên khởi
Khi đang cảm giác bởi thọ vui,
Tuệ tri rằng : ‘Tôi đang vui’.
Do lạc xúc diệt, thọ vui do là
Lạc xúc mà khởi lên cảm giác,
Vị ấy biết : ‘Nay lạc thọ này
Đã diệt đi, chấm dứt ngay’.
Cũng vậy, khổ xúc duyên ngay khổ liền
Nều khổ thọ khởi lên, biết rõ :
‘Tôi cảm giác khổ thọ’ như vầy.
Do khổ xúc ấy diệt ngay
Vị ấy biết : ‘Khổ thọ này diệt theo’.
Bất khổ & lạc xúc đều duyên đó
Bất khổ bất lạc thọ khởi lên,
Vị ấy đang cảm giác liền
Biết là : ‘Tôi cảm giác nên tức thời
Bất khổ & lạc thọ tôi cảm giác’.
Bất khổ & lạc xúc ấy diệt rồi,
Bất khổ & lạc thọ tức thời
Cũng được chấm dứt’. Vị này tuệ tri.
Tỷ Kheo ! Khi có ví dụ khác :
Hai cây que cọ xát thật nhanh
Hơi nóng rồi lửa khởi sanh,
Khi không cọ xát, que cành phân ly
Sức nóng, lửa diệt đi, chấm dứt.
Cũng vậy, duyên lạc xúc, khởi ngay
Lạc thọ. Và khi vị này
Đang cảm giác lạc thọ đây, biết rằng :
‘Chính tôi đang cảm giác lạc thọ’.
Và do lạc xúc đó diệt đi
Vị ấy tuệ tri tức thì :
‘Lạc thọ đó được diệt đi’ đồng thì.
Rồi khổ thọ khởi vì khổ xúc,
Do khổ xúc chấm dứt, diệt đi
Khổ thọ cũng diệt tức thì’.
‘Bất khổ bất lạc thọ’ tùy duyên đây,
Bất khổ & lạc xúc này chấm dứt
Thì thọ này cũng dứt, diệt ngay.
Lại nữa, Xả còn lại đây
Được trong sạch, trong trắng, đầy nhuyến nhu,
Dễ uốn nắn, đặc thù chói sáng.
Tỷ Kheo ! Như hiện trạng xảy ra
Thợ vàng thiện xảo, hay là
Đệ tử người ấy soạn ngay tức thì
Cái lò đúc. Sau khi làm vậy
Thời người ấy đốt lửa miệng lò
Dùng kềm kẹp miếng vàng to
Đặt vàng vào tại miệng lò nói trên,
Thỉnh thoảng y thổi lên một lượt
Rồi rưới nước lên trên miếng vàng,
Thỉnh thoảng quán sát kỹ càng
Vàng ấy đã trở thành vàng sạch đây
Sáng sủa, gột sạch ngay cho hết
Các uế tạp, tỳ vết xóa tan,
Nhu nhuyến, uốn nắn dễ dàng
Có thể chế biến để vàng thành ra
Đồ trang sức như là nhẫn, lắc
Vòng cổ hoặc các thứ bông tai…
Vàng dùng vào mục đích vầy.
Cũng vậy, xả còn lại đây được thành
Nhu nhuyến, trắng, tịnh thanh, chói sáng
Dễ uốn nắn căn bản như vầy.
Người ấy liền tuệ tri ngay :
“Nếu ta tập hợp xả này tịnh thanh
Và trong trắng an lành vào đấy
Không Vô Biên Xứ ấy, tu trì,
Tâm ta tùy theo pháp ni
Sẵn sàng Xả ấy liền y cứ vào,
Chấp thủ mau, được an trú lại
Nơi ta, tại một thời gian dài.
Nếu ta tập trung xả này
Trong trắng, thanh tịnh như vầy, an nhiên
Vào Xứ Thức Vô Biên, tu tập
Tâm của ta tùy nhập pháp này.
Xả này y cứ vào đây
Chấp thủ, an trú lâu dài nơi ta.
Cũng như là Vô Sở Hữu Xứ,
Hoặc Tưởng Xứ Phi tưởng phi phi,
Nếu tập trung xả mọi thì
Thanh tịnh, trong trắng, chấp trì, trú an
Nơi ta một thời gian dài vậy”.
Rồi người ấy tuệ tri như vầy :
“Nếu ta tập trung xả này
Thanh tịnh, trong trắng vào ngay các miền :
Không vô biên & Thức vô biên xứ
Cùng Vô sở hữu xứ, đồng thì
Tưởng xứ phi tưởng phi phi,
Tu tập tâm của ta tùy pháp đây,
Thời xả này thành Hữu-vi pháp”.
Nhưng vị ấy không tác thành, hay
Không suy tưởng gì đến ngay
‘Hữu’ hoặc ‘phi hữu’. Do vầy vị đây
Không chấp thủ đời này mọi sự
Và chấp thủ không quấy rối gì
Do chấp thủ không quấy gì
Vị ấy tự chứng huyền vi Niết bàn,
Tuệ tri rằng : ‘Sự Sanh đã diệt,
Phạm hạnh thiệt thành tựu, đồng thời
Những điều cần, đã làm rồi,
Không còn trở lại cõi đời này đây’.
Nếu vị này cảm giác lạc thọ
Biết ngay : ‘Thọ ấy thật vô thường,
Không nên đắm trước, khôn lường !
Không phải đối tượng để thường hỷ hoan’.
Nếu như đang cảm giác khổ thọ,
Bất khổ bất lạc thọ cảm vầy.
Nếu các thọ kể trên này
Không có hệ phược, vị đây tức thì
Cảm giác các thọ ni, như vậy
Khi vị ấy cảm giác thọ này
Với thân là tối hậu vầy…
Tuệ tri : ‘Ta cảm giác ngay thọ mà
Với thân là tối hậu như vậy’.
Rồi vị ấy tuệ tri : “Sau khi
Thân hoại mạng chung đến kỳ
Mọi cảm thọ hoan hỷ thì nơi đây
Trở thành thanh lương”. Này Phích-Khú !
Như ngọn đèn dầu đủ và tim
Cháy đỏ. Nhưng khi dầu, tim
Không có, ngọn lửa chẳng tìm thấy đâu.
Cũng thế, vị ấy mau biết rõ :
“Sau khi có thân hoại, đoạn sanh
Mọi cảm thọ hoan hỷ lành
Ở nơi đây sẽ trở thành thanh lương”.
Này Tỷ Kheo ! Hiểu tường do vậy
Thành tựu ấy là thành tựu đầy
Tối thắng, tuệ thắng xứ này
Là tối thắng Thánh tuệ đây, nghĩa là
Trí, biết qua diệt mọi đau khổ.
Sự giải thoát ở chỗ vị này
An trú vào Chân Đế ngay,
Không bị dao động. Và này Tỷ Kheo !
Cái gì mà duyên theo hư vọng
Thời thuộc về hư vọng mà thôi,
Cái gì không hư vọng, thời
Thuộc về Chân đế, thuộc nơi Niết bàn.
Nên vị Tỷ Kheo đang thành tựu
Như vậy, là thành tựu đủ đầy
Tối thắng đế thắng xứ này
Là Tối thắng Thánh đế hay Niết bàn,
Không có thể đưa sang không thực
Sanh y vô trí thức trước đây
Của nó đã được đủ đầy,
Đã được thành tựu. Chúng ngay diệt trừ
Chặt tận gốc rễ như được kể
Cây Tha-la không thể sống rồi !
Không thể sanh khởi nữa rồi !
Do vậy, một Phích-Khú nơi tựu thành
Như vậy là sự thành tựu hẳn
Tối thắng huệ thí thắng xứ này.
Vì rằng, Tỷ Kheo ! Như vầy
Tối thắng Thánh huệ thí đây tức thì
Sự xả ly sanh y lập tức.
Tham ái vô trí thức trước đây
Thuộc tham dục, tham nhiễm đầy,
Pháp ấy được đoạn tận ngay như là
Đào tận rễ cây Sa-la nọ,
Không thể có hiện hữu tiếp sau,
Không khả năng sinh trưởng nào.
Phẫn nộ vô trí thức vào trước đây
Thuộc sân hận, mối dây tội quả,
Pháp ấy đã đoạn tận, dứt ngay.
Vô minh vô trí thức này
Si mê, tội quả điều đây thuộc về,
Pháp ấy được nhất tề đoạn tận
Như chặt hẳn rễ Sa-la đây,
Không thể hiện hữu tương lai,
Không thể sinh khởi. Do vầy ở đây
Tỷ Kheo này thành tựu như vậy
Thành tựu ấy : ‘Tối thắng tựu thành
Tịch tịnh thắng xứ’ tịnh thanh
Tối thắng Thánh tịch tịnh lành nghiêm uy,
Tức là tham sân si tịch tịnh.
Khi an định nói đến như vầy :
‘Chớ buông lung trí tuệ này,
Hãy hộ trì Chân đế đầy tinh anh
Hãy thực hành sung mãn huệ thí
Tu học kỹ tịch tịnh’. Đó là
Do duyên này được nói ra.
Khi được nói đến : ‘Khi mà trú an
Vọng tưởng không có đàng chuyển động.
Khi vọng tưởng không động chuyển gì
Vị ấy được gọi tức thì
Là một ẩn sĩ tu trì thăng hoa’.
Này Tỷ Kheo ! ‘Tôi là’ – nói thế
Như vậy để vọng tưởng chen ngay,
Hay nói : ‘Tôi là cái này’,
‘Tôi sẽ là’ – vọng tưởng đầy ở trong,
‘Tôi sẽ không là’ – đây vọng tưởng,
‘Tôi sẽ có sắc’ – tưởng vọng ra,
‘Tôi sẽ không có sắc’ và
‘Tôi sẽ có tưởng’ – cũng là chẳng thông,
Hoặc nói : ‘Tôi sẽ không có tưởng’,
‘Tôi sẽ không có tưởng (đồng thời)
Không không có tưởng’ – thốt lời…
Đều là vọng tưởng, mọi thời dính đeo.
Này Tỷ Kheo ! Vọng tưởng là bệnh
Được nói đến : cục bướu, mũi tên.
Khi vọng tưởng vượt khỏi lên
Thì vị ẩn sĩ có tên gọi là
Đạt tịch tịnh. Nhưng mà Tăng sĩ !
Vị ẩn sĩ tịch tịch không sanh,
Không già, không dao động dành
Không hy cầu. Vì không sanh cái gì,
Không sanh thì làm sao già được ?
Không già, sao chết được ? Đồng thì
Không chết sao dao động gì ?
Không dao động, làm sao hy cầu nào ?
Khi nói đến : ‘Khi vào an trú
Vọng tưởng không có sự chuyển di
Vọng tưởng không chuyển động, thì
‘Ẩn sĩ tịch tịnh’ tức thì gọi tên,
Do chính duyên này, được nói vậy,
Tỷ Kheo hãy thọ trì lược qua
Phân biệt sáu giới của ta ”.
Vị Tăng sĩ Búc-Kú-Sa-Ti này
Liền nghĩ ngay : ‘Hy hữu thật sự !
Bậc Điều Ngự đã đến với ta.
Thật sự Thế Tôn, Phật Đà
Bậc Chánh Đẳng Giác đến ta đây rồi !’.
Tăng sĩ từ chỗ ngồi đứng dậy,
Đắp y lên vai trái, cúi đầu
Đảnh lễ chân Phật hồi lâu,
Rồi bạch : “ Con thật tội sâu, lỗi lầm
Vì rằng quá ngu đần, si ám
Nên đã dám xưng hô với Ngài
Gọi Ngài là ‘Hiền giả’ vầy.
Mong Phật chấp nhận con đây lỗi lầm,
Đó là một lỗi lầm quá thể,
Để tương lai con sẽ ngăn ngừa ”.
– “ Tỷ Kheo ! Như ông đã thưa
Thì quả thật ông đã vừa rơi vô
Một lỗi lầm điên rồ, ngu dại,
Si mê, lại chẳng khéo léo gì,
Vì gọi bậc Chánh Biến Tri
Là ‘Hiền-giả’, thật cực kỳ lầm thay !
Nhưng mà này Tỷ Kheo ! Cũng tốt !
Thấy lỗi lầm là một lỗi lầm.
Như Pháp phát lồ từ tâm
Thời Ta chấp nhận lỗi lầm của ông.
Vì rằng trong giới luật bậc Thánh
Khi nào ai muốn tránh lỗi lầm
Như Pháp phát lộ từ tâm
Để ngăn ngừa sự lỗi lầm tương lai ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Xin Ngài nhỏ phúc
Cho con thọ Cụ-túc-giới liền
Trước đấng Thế Tôn hiện tiền ”.
– “ Ông có đủ y bát riêng không vầy ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Con nay không có ”.
– “ Này Tăng-sĩ ! Không có bát, y
Các đấng Như Lai mọi thì
Không truyền Cụ-túc-giới vì cho ai ”.
Tăng-sĩ này – Búc-Kú-Sa-Tí
Sau khi đã hoan hỷ vâng lời
Thế Tôn, liền từ chỗ ngồi
Đứng dậy đảnh lễ Phật rồi ra đi
Tìm y bát. Trong khi đi vậy
Một con bò điên chạy tông vào
Làm cho Tăng-sĩ té nhào
Chết ngay tại chỗ. Rồi sau đó thì
Số đông Tỳ-Kheo đi đến Phật
Đảnh lễ Phật, ngồi xuống một bên,
Rồi các vị ấy thưa lên :
– “ Bạch Phật ! Vị Tăng-sĩ tên mọi thì
Là Búc-Kú-Sa-Ti, đã được
Thế Tôn thuyết giản lược, tựu trung
Nay vị ấy đã mệnh chung
Sanh thú vị ấy sanh cùng nơi đâu ?
Đời sống như thế nào kế tiếp ? ”.
– “ Các Tỷ Kheo ! Thoát kiếp nhân sinh !
Thật là một bậc Hiền minh
Búc-Kú-Sa-Tí tự mình chú tâm
Đã chấp hành uyên thâm Chánh Pháp
Và tùy pháp, không có nhiễu phiền
Với những kiện tụng đảo điên
Về Chánh pháp. Nên do duyên này mà
Vị Thiện-gia-nam-tử Tăng-sĩ
Là Búc-Kú-Sa-Tí – diệt phăng
Cả năm kiết sử hạ phần
Được hóa sanh và pháp thân nhập liền
Vào Niết bàn, vui duyên giải thoát
Không trở lui kiếp khác, cõi đời ”.
Hoan hỷ nghe Phật giảng rồi
Chúng Tăng tín thọ những lời Thế Tôn ./-
*
* *
( Chấm dứt Kinh số 140 : GIỚI PHÂN BIỆT
– DHÀTUVIBHANGA Sutta )