TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO
TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH
( Majhima Nikàya )
Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli
Chuyển thể Thơ :
Giới Lạc MAI LẠC HỒNG tự TUỆ NGHIÊM
( Huynh Trưởng Cấp Tấn - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )
Email : honglacmai1@yahoo.com
130. Kinh THIÊN SỨ
( Devadùta sutta )
Như vậy, tôi nghe :
Một thời nọ Thế Tôn Thiện Thệ
An trú tại Xá-Vệ thành này
Sa-Vát-Thí cũng là đây
Kỳ Viên Tinh Xá hôm mai tịnh, hòa
Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná
Cấp-Cô-Độc Trưởng giả tín gia
A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka
Tín thành dâng đến Phật Đà trước đây.
Tại nơi này Ngài gọi Tăng Chúng :
– “ Này Tăng Chúng ! Hãy khéo nghe đây ”.
Chư Tỷ Kheo tại nơi này
Vâng đáp lời Phật. Rồi Ngài thuyết ngay :
– “ Chúng Tăng này ! Như nhà có cửa
Một người đứng chính giữa nhìn ra
Thấy những người đi vào nhà,
Đi qua đi lại, đi ra khỏi nhà.
Cũng vậy, Ta nhìn với thiên nhãn
Siêu nhân và viên mãn tịnh thanh
Thấy rõ các chúng hữu tình
Chết đi sinh lại, hành trình chuyển di,
Kẻ hạ liệt, người thì sang cả
Kẻ xấu xí, người quá đẹp trai
Tùy theo hạnh nghiệp người này
Thiện thú, ác thú hiện ngay như vầy.
Ta nghĩ ngay : ‘Các hữu tình đó
Vì do họ thành tựu an lành
Về thân, khẩu, ý-thiện-hành
Không công kích bậc tịnh thanh Thánh hiền,
Có chánh kiến, cần chuyên hành thiện
Nghiệp phù hợp chánh kiến vô cùng,
Sau khi thân hoại mạng chung
Sinh lên Thiện thú, Thiên cung cõi Trời,
Sinh làm người giàu sang phú quý.
Còn hữu tình nào bị ác duyên
Thành tựu thân-ác-hành riêng,
Ác hành khẩu, ý liên miên thực hành
Công kích bậc Thánh, sanh tà kiến
Nghiệp phù hợp tà kiến xấu xa
Sau khi thân hoại, sinh qua
Vào cõi ngạ-qưỷ hay là bàng-sanh,
Hoặc bị sanh ác thú, cõi dữ,
Sinh đọa xứ, địa ngục… chốn này.
Các Tỷ Kheo ! Tại nơi đây
Ngưu đầu mã diện sẵn bày khảo tra
Thừa lệnh Vua Dạ-Ma nơi ấy
Liền bắt lấy người tội đọa sa
Dẫn đến Diêm Vương (Dạ-Ma) (1)
Thưa rằng : ‘Y chẳng xứng là Sa-môn
Không xứng Bà-la-môn cao thượng,
Không kính bậc trưởng thượng trong nhà
Ngài hãy trừng phạt y ta’.
Các Tỷ Kheo ! Vua Dạ-Ma tức thời
Thẩm vấn người tội vừa nói đó :
_____________________________
(1) : Cõi trời Yàmà (Dạ Ma) và Vua trời Dạ-Ma: Suyàma,
thường được gọi là Diêm Vương.
- ‘Này người kia ! Ngươi có thấy qua
Thiên Sứ thứ nhất hiện ra
Giữa thế gian, cõi người ta không nào ?’
- Thưa Diêm Vương ! Con đâu có thấy’.
- ‘Ngươi có thấy trẻ nít sinh ra
Yếu ớt nằm ngửa khóc la
Giữa phân tiểu nó thải ra không nào ?’.
- ‘Thưa ! Ban đầu người nào cũng thế’.
- ‘Này người kia ! Có thể ngươi là
Người có ý thức, tuổi già
Nhưng ngươi không nghĩ rằng : ‘Ta ra đời
Bị sự sanh đồng thời chi phối
Không thoát khỏi sự sanh cõi trần,
Ta hãy làm thiện về thân,
Làm thiện về khẩu & ý, cần cả ba’.
- ‘Thưa Diêm Vương ! Thật là quá khó !
Con không có thực hiện, bởi vì
Con bị phóng dật phủ vi’.
Vua Diêm vương ấy tức thì bảo y :
- ‘Này người kia ! Nếu vì phóng dật
Sự giải đải cố tật của ngươi,
Ngươi không làm thiện mọi thời
Về thân, khẩu, ý trong đời của ngươi
Chắc chắn chúng làm ngươi điên đảo
Vì ngươi tạo ác nghiệp tự thân
Không phải do mẹ ngươi làm
Cha ngươi cũng chẳng dự phần nghiệp đây,
Không do anh, chị hay bè bạn,
Chịu ác nạn không phải do từ
Bà con huyết thống, gia sư,
Không do Phạm-chí hay chư vị là
Các Sa-môn làm ra điều ấy
Ác nghiệp đấy do chính ngươi làm
Cảm thọ quả báo thậm thâm’.
Sau khi tra vấn tội nhân như vầy
Về Thiên Sứ hiển bày thứ nhất,
Vua Dạ-Ma lại cật vấn ngay
Về vị Thiên Sứ thứ hai :
- ‘Người kia ! Có thấy giữa loài người đây
Vị Thiên Sứ thứ hai xuất hiện ?’.
- ‘Thưa Ngài ! Về phương diện kể ra
Quả thật con không thấy qua’.
- ‘Người kia ! Có thấy đàn bà, đàn ông
Tám, chín mươi hoặc trong trăm tuổi
Thân yếu đuối, bệnh hoạn, lưng còng,
Run rẩy, tóc bạc, răng long,
Tuổi trẻ qua mất, sức không còn nhiều,
Da nhăn nheo, tay chân lẩy bẩy
Ngươi có thấy hiện tượng như vầy ?’.
- ‘Thưa Ngài ! Có thấy điều đây’.
Các Tỷ Kheo ! Diêm Vương này nói ngay :
- ‘Người kia ! Tuy tuổi ngươi lớn thực
Có ý thức, nhưng chẳng nghĩ là :
‘Ta bị chi phối bởi già,
Ta không thoát khỏi cái già khổ đau.
Ta hãy mau làm điều phước thiện
Về thân, khẩu, ý hiện rỗng không’.
Tội nhân ấy khi nghe xong
Thưa rằng : ‘Điều đó con không thể làm
Vì còn đang bị nhiều phóng dật’.
- ‘Này người kia ! Nếu thật sự vầy
Ác nghiệp ngươi tạo ra đây
Chính ngươi phải chịu đọa đày tự thân
Phải cảm thọ mọi phần quả báo,
Đây ta bảo Thiên Sứ thứ hai’.
Diêm vương hỏi tiếp người này :
- ‘ Người kia ! Có thấy điều đây chăng là ?
Giữa loài người hiện ra Thiên Sứ
Là Thiên Sứ thứ ba hay không ?’.
- ‘Thưa Ngài ! Quả thật là không’.
- Người kia ! Ngươi đã từng trông thấy là
Người đàn ông, đàn bà bệnh hoạn
Chịu khổ nạn, đau đớn phát sinh
Nằm trên phân tiểu của mình ?
Cần người khác đỡ thân hình ngồi lên,
Ở cạnh bên để dìu nằm xuống ?’.
- ‘Con có thấy trạng huống như vầy’.
- ‘Người kia ! Tuy rằng người này
Đã có ý thức. lâu dài sống qua
Nhưng không hề nghĩ là : ‘Sớm tối
Ta bị bệnh chi phối, đeo hoài
Ta không thoát khỏi bệnh vầy
Ta phải làm điều thiện ngay đi nào’.
- ‘Thưa Ngài ! Con không sao làm được
Bị phóng dật sau trước bủa vây’.
Này các Tỷ Kheo ! Tiếp ngay
Diêm vương nói với người này như sau :
- ‘Người kia ! Bao bất thiện ngươi tạo
Thân, khẩu, ý bất hảo mọi thời
Chắc chắn quả báo đến ngươi,
Không do ai khác, do nơi ngươi hành
Phải cảm thọ chẳng lành quả báo,
Đây ta bảo Thiên Sứ thứ ba’.
Dạ-Ma tiếp tục hỏi tra :
‘Người kia ! Ngươi có thấy qua rõ ràng
Về Thiên Sứ thuộc hàng thứ bốn ?’.
- ‘Thưa Ngài ! Con đây vốn không tường’.
- ‘Người kia ! Có thấy trên đường
Giữa loài người, khi có phường sát nhân
Hay tướng cướp muôn phần hung dữ
Bị quan quân bắt giữ, dẫn đi
Đến hình trường xử tức thì
Rất nhiều hình phạt cực kỳ đớn đau
Đánh bằng roi, dung lao đâm xóc
Hoặc gậy gộc, tra tấn, cùm vào
Hoặc bị đao phủ chặt đầu
Thế ngươi có thấy trước sau điều này ?’.
- ‘Kính thưa Ngài ! Con đây có thấy’.
Diêm vương bảo kẻ ấy như vầy :
‘Tuy ngươi ý thức có đầy
Tuổi tác cũng lớn, không rày nghĩ qua :
‘Thực sự là những ai tạo tác
Thường làm các nghiệp ác dẫy đầy,
Hình phạt sai khác lảnh ngay
Ngay trong hiện tại như vầy, huống chi
Chịu quả báo trong thì kế tiếp
Ta phải kíp làm thiện nghiệp liền
Về thân, khẩu, ý hiện tiền’.
Người ấy liền đáp : ‘Xin riêng trình bày
Con không thể điều này thực hiện
Vì phóng dật bất thiện bủa vây’.
Liền đó, các Tỷ Kheo này !
Vua Dạ-Ma nói với người này như sau :
- ‘ Do ngươi bị đắm vào phóng dật
Tùy theo sự phóng dật của ngươi
Tự thọ quả báo tức thời
Không do ai khác, ác ngươi chẳng từ.
Đây Thiên Sứ thứ tư xuất hiện.
Rồi diễn tiến, vị vua Dạ-Ma
Tiếp tục công việc thẩm tra
Hỏi rằng : ‘Ngươi có thấy qua trong tầm
Vị Thiên Sứ thứ năm hiện tới ?’.
- ‘Thưa Ngài ! Với điều ấy thì không’.
- Giữa loài người, ngươi thấy không ?
Những đàn bà hoặc đàn ông chết rồi
Đã mấy ngày sinh sôi dòi tửa
Sưng phồng lên rồi rửa nát ra ?’.
- ‘Thưa Ngài ! Con có thấy qua’.
Các Tỷ Kheo ! Vua Dạ-Ma tức thì
Nói với y : “Ngươi tuy lớn tuổi,
Ý thức, nhưng mê muội trầm kha
Ngươi không có suy nghĩ là :
‘Ta đây không thể thoát qua tử thần
Bị cái chết là nhân chi phối
Gây lắm tội. Phải làm thiện ngay
Về thân, khẩu, ý đêm ngày”.
Tội nhân liền đáp : ‘Thưa Ngài ! Không kham !
Do phóng dật, không làm chi được’.
- ‘Này tội nhân ! Từ trước đến sau
Nếu ngươi phóng dật mắc vào
Không làm thiện nghiệp, mặc dầu nhắc ngươi
Chắc chắn chúng làm ngươi điên đảo
Vì ngươi tạo ác nghiệp tự thân
Không phải do mẹ ngươi làm
Cha ngươi cũng chẳng dự phần nghiệp đây,
Không do anh, chị hay bè bạn,
Chịu ác nạn không phải do từ
Bà con huyết thống, gia sư,
Không do Phạm-chí hay chư vị là
Các Sa-môn làm ra điều ấy
Ác nghiệp đấy do chính ngươi làm
Cảm thọ quả báo thậm thâm
Dù được gởi Thiên Sứ năm lần vầy’.
Nói đến đây, Diêm vương im lặng
Các ngục tốt liền dẫn người này
Đến nơi hành phạt tội dày
Gọi là năm cọc, đẩy ngay y nằm
Lấy cọc sắt trong hầm nung đỏ
Đóng cọc đó năm chỗ trên thân
Giữa ngực, hai tay, hai chân
(Gọi Panh-Chá-Ví-Tha-Băng-Tha-Nầng) (1)
Người ấy chịu muôn phần thống khổ
Y thọ lảnh vô số đớn đau
__________________________
(1) : Pañcavidhabandhanam : Hình phạt năm cọc.
Thọ hình khốc liệt dài lâu
Nhưng không thể chết, khi nào nghiệp y
Chưa đến kỳ tiêu trừ, trả đủ.
Các Phích-Khú ! Ngục tốt tiếp theo
Lại bắt kẻ ấy đem treo
Dựng ngược đấu xuống, bèo nhèo tả tơi.
Chúng tức thời dùng búa để chặt
Rồi lại đặt y lên thiết xa
Kéo chạy lui tới, lại qua
Trên mặt đất cháy đỏ lòa chói chang
Cháy đỏ rực, lửa càng thiêu đốt,
Sự thống khổ cùng tột tại đây.
Đẩy lên kéo xuống người này
Trên sườn núi than hừng ngày lẫn đêm
Luôn hừng hực. Rồi đem kẻ ấy
Dựng ngược thân để thảy vào trong
Một vạc dầu lớn bằng đồng
Đang sôi sung sục, nấu trong vạc này.
Thân người này nổi chìm, trôi dạt
Y thọ lảnh cùng cực đớn đau
Thọ hình khốc liệt dài lâu
Nhưng không thể chết, khi nào nghiệp y
Chưa đến kỳ tiêu trừ, trả đủ.
Các Phích-Khú ! Ngục tốt tiếp sau
Đem tội nhân ấy quăng vào
Trong Đại-địa-ngục rộng sâu cũng bằng,
Bốn góc, cửa thành phần đều giống
Chung quanh đóng tường sắt làm phên
Có mái sắt lợp ở trên
Nền địa ngục được tạo nên sắt dày
Cháy đỏ rực đêm ngày nóng bỏng
Mỗi bề rộng một trăm do-tuần.
Từ tường Đông lửa lại tuôn
Qua tường Tây cả do-tuần đốt thiêu,
Lửa hai chiều tường Nam tường Bắc
Thổi tạt giạt qua phía Bắc – Nam,
Từ dưới ngọn lửa bất kham
Thổi lên trên mái, càng làm nóng hơn,
Lửa phía trên chờn vờn tạt xuống
Với trạng huống thọ lảnh đớn đau
Tội nhân thống khổ rất sâu
Nhưng không thể chết, khi nào nghiệp y
Chưa đến kỳ tiêu trừ, trả đủ.
Các Phích-Khú ! Rồi rất lâu xa
Cửa Đông địa ngục mở ra
Tội nhân liền chạy thật là lẹ nhanh.
Khi người ấy chạy nhanh để trốn
Nhưng không thể nào trốn nghiệp y
Lớp da ngoài, trong, biểu bì
Dây gân và thịt… đồng thì cháy đen.
Dù nhiều phen trốn chạy như vậy
Cửa vẫn đóng, chống lại tội nhân
Tội nhân ấy cảm thọ rằng
Cảm giác khốc liệt, muôn phần đớn đau.
Nhưng tội nhân không sao chết được
Khi ác nghiệp chưa được tiêu tan.
Các Tỷ Kheo ! Một thời gian
Rất lâu chịu khổ thì đàng phía Đông
Cửa mở ra, y xông ra đấy
Chạy thoát địa ngục ấy nhanh thay !
Sự trốn thoát của người này
Khỏi địa ngục ấy như vầy trải qua.
Các Tỷ Kheo ! Nhưng mà Địa ngục
Đại Phấn-Nị địa ngục, hay là
(Ngục Gu-Tha-Ní-Ra-Da) [ Guthaniraya ]
Cận sát nơi ấy. Thế là tội nhân
Rơi vào phần Đại-địa-ngục ấy,
Tại nơi đấy có các chúng sinh
Miệng như mũi kim tạo thành
Vô cùng sắc bén, cắt nhanh da ngoài
Khi cắt đứt da ngoài, lại cắt
Đứt da trong, rồi cắt thịt, gân,
Cắt đứt xương, tủy xương dần
Tội nhân cảm thọ muôn phần đớn đau,
Khốc liệt sâu, khổ chưa từng thấy
Nhưng người ấy không thể chết ngay
Khi nào ác nghiệp người này
Chưa tiêu trừ dứt, nghiệp này vẫn mang.
Tội nhân lại rơi sang lập tức
Đại-địa-ngục Nhiệt Khối, tức là
Kút-Kú-La-Ní-Ra-Da [ Kukkulaniraya ]
‘Than Hừng’ tên ấy cũng là ngục đây.
Tại ngục này tội nhân cảm thọ
Những cảm giác thống khổ, đớn đau
Vô cùng khốc liệt, dài lâu.
Sau đó lại bị rơi vào lâu năm
Trong Đại Châm Thọ Lâm quái dị
(Săm-Ba-Lí-Va-Năng là tên) [ Sambalivanam ]
Cao một do-tuần mỗi bên
Với những gai nhọn khắp liền trên cây
Cả rừng cây gai nhọn được tạo
Gai nhọn dài mười sáu ngón tay
Các gai nhọn và thân cây
Đều cháy đỏ rực cả ngày lẫn đêm,
Bắt người ấy leo lên, leo xuống
Với tình huống cực kỳ đớn đau
Thống khổ khốc liệt xiết bao !
Chịu khổ mãi, thời gian sau rơi vào
Đại Kiếm Diệp Lâm – đao gươm lá
(Hay A-Sí-Pát-Tá-Vanh-Ta) [ Asipattavanta ]
Tên ‘Rừng lá gươm’ cũng là
Ở đấy các lá cây va chạm hoài
Do gió thổi, trong ngoài mọi mặt
Các lá cây bén sắc, cắt ngay
Tay chân, cắt đứt mũi, tai,
Tại đây người ấy lâu dài trải qua
Những cảm giác thật là khốc liệt
Sự thống khổ chi xiết đớn đau
Nhưng không thể chết, khi nào
Ác nghiệp chưa dứt, khổ sầu còn đeo.
Các Tỷ Kheo ! Rồi y rơi lại
Sông Vôi - Đại Khôi Hà tức thì
(Kha-Rô-Đa-Ká-Na-Đi) [ Kharodakanadi ]
Y chịu thống khổ do vì ác căn,
Bị trôi lăn thuận theo dòng nước,
Trôi ngược theo dòng nước sục sôi,
Cảm thọ đau đớn vô hồi
Thống khổ, khốc liệt nổi trôi sông này.
Thời gian dài chịu khổ tai ngược
Rồi y được ngục tốt vớt lên
Đoạn hỏi tội nhân nói trên :
Người kia ! Ngươi muốn nói lên điều gì ?’.
- ‘Thưa các ngài ! Tôi thì đang đói’.
Nghe y nói, ngục tốt lấy ngay
Cọc sắt nung đỏ ở đây
Cạy miệng người ấy nhết đầy vào trong.
Những cục đồng đã nung đỏ rực
Cháy lập tức môi, miệng, lưỡi – và
Cổ họng, ngực cháy lan ra
Kéo theo cháy cả ruột già, ruột non
Cục đồng còn trong ruột đốt cháy,
Tiếp tục mãi đến lúc rơi ra.
Người ấy cảm thọ tối đa
Thống khổ khốc liệt, rất là đớn đau.
Thời gian sau, ngục tốt lại hỏi
Nghe y nói khát nước quá chừng,
Ngục tốt đến lò than hừng
Lấy cọc sắt đỏ đã dùng nung lâu
Cạy miệng y, đổ vào trong miệng
Nước đồng sôi và khiến tức thì
Môi, miệng, lưỡi, cổ họng y
Ruột lớn, ruột nhỏ… cực kỳ đớn đau
Sự thống khổ không sao kể hết
Nhưng y không thể chết dễ dàng
Khi ác nghiệp chưa tiêu tan.
Các Phích-Khú ! Do đã mang nghiệp dày
Nên người này tiếp tục chịu khổ
Tại nhiều chỗ Đại-địa-ngục vầy.
Một thời, các Tỷ Kheo này !
Diêm vương tức Dạ-Ma đây, nghĩ vầy :
‘Bất cứ ai tạo nhiều ác nghiệp
Phải thọ lảnh liên tiếp cực hình
Sai khác như đã chứng minh.
Mong rằng ta sẽ được sinh làm người
Nhằm vào thời bậc A-La-Hán
Đấng Chánh-đẳng Chánh-giác, Phật Đà
Xuất hiện ở đời, để ta
Có thể hầu hạ Ngài và được nghe
Đức Chánh Đẳng thuyết về Chánh Pháp
Và ta được hiểu pháp thuyết ra’.
Này các Tỷ Kheo ! Đó là
Điều Ta nói không phải Ta nghe từ
Một Sa-môn hay từ một vị
Dòng Phạm-chí nào khác nói ra.
Điều Ta nói chỉ được Ta
Biết, thấy, hiểu rõ, tự Ta chứng tầm ”.
Đức Thế Tôn uyên thâm thuyết giảng
Pháp viên mãn. Rồi nói them là :
“ Dẫu Thiên Sứ báo động qua
Thanh niên vẫn phóng dật và quên ngay
Nên họ ưu buồn lâu dài,
Sanh nơi hạ liệt, thật hoài tấm thân.
Còn ở đây, bậc Chân Nhân
Được Thiên Sứ báo, muôn phần lo âu
Không hề có phóng dật nào
Diệu pháp bậc Thánh nương vào hành qua
Thấy sợ trong chấp-thủ tà
Trong hiện hữu sinh tử mà dứt ngang
Giải thoát chấp thủ hoàn toàn,
Đoạn trừ sinh tử, lạc an lâu dài
Ngay hiện tại tịch tịnh này
Các vị vượt thoát miệt mài trái ngang,
Oán hận, sợ hãi tiêu tan
Siêu thoát sầu khổ, tâm an thân lành ”.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( 3 L )
*
* *
( Chấm dứt Kinh số 130 : THIÊN SỨ
– DEVADÙTA Sutta )
__________________________________
“ Ye dhammà hetuppabhavà
Tesam hetum Tathàgato
Àha tesan ca yo nirodho
Evam vàdì Mahà Samano ”.
“ Vạn pháp tùng duyên sinh
Diệc tùng nhân duyên diệt
Ngã Phật Đại Sa Môn
Thường tác như thị thuyết ”.
‘ Vạn pháp theo nhân duyên sinh ’
‘ Theo nhân duyên diệt’ – đinh ninh điều này.
Bậc Đại Sa Môn Như Lai
Thường dạy như vậy ; chính Thầy của tôi .
* Chú thích xuất xứ về bài kệ này :
Bài kệ do Tôn-giả Thánh Tăng A-La-Hán ASAJI (A-Xà-
Chí ), vị trẻ tuổi nhất trong năm vị nhóm Kiều-Trần-Như ,
bạn đồng tu và cũng là năm Đệ tử đầu tiên của Đức Phật
đọc lên cho Ngài Xá-Lợi-Phất khi được hỏi trong lúc Tôn-
giả đang thường lệ khất thực tại Thành Vương Xá .
Nguyên thời bấy giờ , Ngài Xá-Lợi-Phất ( Sariputta )
cùng với người bạn thân Mục-Kiền-Liên ( Moggalanna )
là hai thanh niên Bà-La-Môn rất nổi tiếng đương thời vì
sức học uyên thâm, tinh thông Tam Vệ-Đà .Nhưng cả hai
vẫn chưa thỏa mãn với những gì Tam Vệ-Đà chuyển tải ,
nên ước hẹn với nhau: Ai tìm được vị Đạo Sư khả kính có
thể giải hết những nghi ngờ trong các học thuyết cổ kim ,
thì phải báo với người kia để cùng qui ngưỡng tu tập .
Khi lần đầu tiên thấy vị Sa-Môn nghiêm tịnh, thần thái
an nhiên tự tại đang thứ đệ khất thực tại Thành Vương-Xá
Ngài Xá-Lợi-Phất bỗng sinh lòng kính mộ, muốn thưa hỏi
về đường lối tu hành của Tôn-giả, nhưng tôn trọng vì Tôn
giả đang khất thực , nên Ngài cung kính đi theo sau . Khi
thấy vật thực đã đủ , Tôn-giả Asaji tìm một gốc cây, ngồi
xuống thọ thực. Sau khi dùng xong, Ngài Xá-Lợi-Phất đã
thi lễ và đặt câu hỏi với Tôn-giả : Ai là Thầy của Ngài,và
vị ấy đã dạy như thế nào ?
Tôn-giả Asaji đã đọc lên bài kệ cô đọng và hàm súc
ấy . Vừa nghe xong, Ngài Xá-Lợi-Phất vô cùng hoan hỷ
hoát nhiên đại ngộ . Ngài cáo từ sau khi hỏi nơi trụ xứ
của Đức Phật , rồi vội vàng đi tìm Ngài Mục Kiền Liên ,
đọc lại nguyên văn bài kệ ấy . Ngài Mục-Kiền-Liên khi
nghe xong, lập tức đắc Tu-đà-hoàn quả . Cả hai cùng đi
đến Trúc Lâm Tinh-Xá ( Veluvanavihàra ) đảnh lễ Phật
và cầu xin xuất gia trong Giáo Pháp của Đấng Thế Tôn.
Sau khi cả hai lần lượt đắc Thánh quả A-La-Hán , Đức
Phật tuyên bố hai Ngài là Hai Đại Đệ Tử của Phật :
Ngài Xá-Lợi-Phất là Đệ nhất Trí Tuệ và Ngài Mục-Kiền-
Liên là Đệ nhất Thần Thông .