TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO
TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH
( Majhima Nikàya )
Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli
Chuyển thể Thơ :
Giới Lạc MAI LẠC HỒNG tự TUỆ NGHIÊM
( Huynh Trưởng Cấp Tấn - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )
Email : honglacmai1@yahoo.com
129. Kinh HIỀN NGU
( Bàlapandita sutta )
Như vậy, tôi nghe :
Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ
An trú tại Xá-Vệ thành này
Sa-Vát-Thí cũng là đây
Kỳ Viên Tinh Xá hôm mai tịnh, hòa
Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná (1)
Cấp-Cô-Độc Trưởng giả tín gia
(A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka) (1)
Tín thành dâng đến Phật Đà trước đây.
Tại nơi này, Thế Tôn cho gọi
Các Tỷ Kheo rồi nói như vầy :
– “ Này các Tỷ Kheo ! Ở đây
Có ba đặc điểm đủ đầy có ra
Cũng là ba đặc tướng, đặc ấn
Của người ngu, chẳng lẫn vào đâu.
Ba đặc điểm ấy là sao ?
Người ngu suy nghĩ ác vào tư duy
Lời nói ác, thực thi ác hạnh,
Nếu người ngu đều tránh thực hành
Cả ba đặc điểm chẳng lành
Làm sao kẻ trí biết nhanh như vầy :
‘Chính ngưoời này ngu si trói buộc,
Không phải thuộc Chân-nhân các vì’.
Vì rằng người ngu tư duy
Là suy nghĩ ác. lời thì ác ngôn
Và ác hạnh bảo tồn, giữ lấy
Chính vì vậy, người trí biết ngay :
‘Người ngu chính là kẻ này,
Không thuộc bậc trí sâu dày Chân-nhân’.
Người ngu ấy, ngay phần hiện tại
Cảm thọ lấy ba loại khổ ưu.
Hãy nghe, này các Tỳ Khưu !
Nếu người ngu đến và lưu chốn nào,
Đến ngồi vào giữa hội chúng đó
Hay bên đường xe cộ lại qua
Ngồi tại ngã tư, ngã ba…
Nếu có người thấy y mà nghĩ suy
Câu chuyện gì thích hợp người ấy :
Nếu y ngu thường lấy của người,
Sát sanh, tà hạnh mọi thời
Nói láo, ác khẩu, nói lời ba hoa,
Say rượu men hay là rượu nấu.
Còn người ngu tự bảo trong khi
Nhìn người khác nghĩ về y :
‘Họ nghĩ cũng đúng những gì về ta,
Vì những thứ này ta có thật,
Và ta thật có những pháp này’.
Này các Tỷ Kheo ! Ở đây
Khổ ưu thứ nhất người này ngu si
Cảm thọ ngay trong thì hiện tại.
Người ngu thấy kẻ trộm cướp, thời
Vua quan khi biết được rồi
Áp dụng hình phạt tùy nơi tội hình :
Đánh roi, gậy lên mình kẻ ấy,
Chặt chân, tay ; xẻo lấy mũi, tai
Hình phạt vạc dầu sôi đầy
‘Hình con sò xẻo’ ở ngay ‘đỉnh đầu’
Hoặc ‘la hầu khẩu hình’ ở giữa
Hoặc lấy lửa đốt như vòng hoa
‘Chúc thủ hình’ – phạt đốt tay,
‘Khu hành hình’ – rơm bện đây siết dày,
‘Bì y hình’ – vỏ cây làm áo ,
‘Linh dương hình’ – dê núi hành hình,
Hoặc hình thức ‘câu nhục hình’
Lấy câu móc thịt, thật kinh khiếp rày
Hình đồng tiền, thịt này được cắt
‘Khối trấp hình’ này, hoặc ‘chuyển hình’
‘Cao đạp đài’, cách hành hình
Dầu sôi tưới phỏng thân mình, chân tay,
Thả chó dữ ra ngay, xé xác,
Trói vào cọc, hình phạt chém ngay.
Này các Tỷ Kheo ! Ở đây
Người ngu thấy thế, nghĩ vầy : ‘Do nhân
Các ác hành tự thân chuốc lấy,
Tên trộm cướp phạm phải luật hình,
Bị Vua quan bắt hành hình
Với nhiều cách thức thật kinh khủng này.
Những điều đây nơi ta cũng có,
Nếu Vua quan mà họ biết ra
Bắt ta hành phạt khảo tra
Thật là khủng khiếp khiến ta ưu sầu’.
Là thứ hai thuộc vào ưu khổ
Mà người ngu cảm thọ hiện thời.
Lại nữa, người ngu leo ngồi
Trên ghế, giường ngủ, nằm nơi đất nền…
Lúc bấy giờ, dựa trên ác nghiệp
Của y làm liên tiếp trước sau
Như thân, khẩu, ý-hành nào
Khiến bị treo áp rồi mau treo nằm,
Treo đè lên chỉ nhằm người ấy.
Giống như vậy, này các Tỷ Kheo !
Bóng các đỉnh núi buổi chiều
Treo nằm, treo áp hay treo đè liền
Trên mặt đất. Cho nên cũng vậy
Người ngu ấy suy nghĩ như sau :
‘Ta không làm điều phước nào,
Không làm điều thiện, dấn sâu tội nhiều,
Không làm điều chống lại sợ hãi,
Làm điều hại, hung bạo, ác nhân,
Do làm điều ác mọi phần
Phải sinh ác thú khi thân chết rồi’.
Người ấy thời sầu muộn, than vãn
Khóc lóc, đoạn đấm ngực rên la
Rơi vào bất tỉnh. Đây là
Một sự ưu khổ thứ ba hiện đời
Mà người ngu tức thời cảm thọ.
Các Tỷ Kheo ! Kẻ đó ngu si
Làm thân-ác-hành mọi thì
Ác-hành khẩu & ý, nên khi chết rồi
Sinh vào nơi ác thú, cõi dữ
Vào đọa xứ, địa ngục, nạn tai.
Các Tỷ Kheo ! Nếu có ai
Nói đúng đắn về người đây mọi phần
Phải nói rằng y thật ngu dốt
Làm hoàn toàn không tốt đẹp chi,
Không khả ái, thích ý gì.
Cũng như nói đến A-Tỳ ngục môn
Hoàn toàn không tốt đẹp, khả ái,
Không thích ý sinh tại nơi đây.
Các Tỷ Kheo ! Vấn đề này
Có một ví dụ khó ai tả vào
Vì rất nhiều khổ đau địa ngục ”.
Nghe Phật nói về mục như vầy
Một Tỷ Kheo bạch Phật ngay :
– “ Bạch Phật ! Có thể nào Ngài từ bi
Cho Chúng Tỳ Kheo một ví dụ ? ”.
Đấng Điều Ngự chấp thuận, nói ngay :
– “ Ví như, các Tỷ Kheo này !
Có người bắt được kẻ đầy hung hăng,
Y sống bằng trộm cướp thường nhật
Bị dẫn đến trước mặt Vua ngay
Tâu rằng : ‘Tên trộm cướp này
Nay bắt y được, xin ngài xử y
Theo những gì Đại vương muốn xử’.
Đức vua liền phân xử tức thì :
‘Cẩm y thị vệ đưa y
Đến Hình-bộ, đoạn thực thi như vầy :
Đâm kẻ này một trăm ngọn giáo
Vào buổi sang để tạo thần uy’.
Giáp sĩ đưa kẻ cướp đi
Thực hiện đúng với điều chi Vua truyền.
Đến trưa, nhà vua liền hỏi lại :
‘Các khanh đâm kẻ ấy ra sao ?’
‘Tâu Vua ! Tên cướp đớn đau
Nhưng vẫn còn sống cho dầu thảm thương’.
Vị Quốc vương liền truyền lệnh bảo :
‘Đâm tiếp trăm ngọn giáo vào y’.
Chiều hỏi Thị vệ Cẩm y :
‘Hành hình tên cướp thực thi thế nào ?’
– ‘Tâu Đại Vương ! Y đau đớn lắm
Nhưng còn sống dù tắm máu đào’.
– ‘Vậy các khanh hãy mau mau
Đâm tiếp tên cướo cho sâu chẳng nhầm
Với một tram ngọn giáo nữa vậy’.
Và họ đã đâm người ấy thật sâu.
Các Tỷ Kheo ! Nghĩ thế nào
Ba trăm ngọn giáo đâm vào kẻ đây
Nhân duyên này khiến cho kẻ cướp
Cảm thọ được khổ ưu hay không ? ”.
– “ Thọ hình này, bạch Thế Tôn !
Chỉ một ngọn giáo đâm trong một lần
Kẻ ấy đã muôn phần ưu khổ
Huống chi họ đã đâm cả ngày
Ba trăm ngọn giáo như vầy ”.
Bỗng Thế Tôn cúi nhặt ngay bên đàng
Hòn đá nhỏ bằng bàn tay vậy
Hỏi các Tỷ Kheo ấy như sau :
– “ Này các Tỷ Kheo ! Nghĩ sao
Tuyết Sơn núi ấy thế nào so qua
Với hòn đá mà Ta vừa nhặt ? ”.
– “ Bạch Ngài ! Thật quá nhỏ so ra
Sánh với Tuyết Sơn thua xa
Nó không đáng kể nếu mà cân phân
Núi lớn hơn triệu lần như thế ”.
– “ Các Tỷ Kheo ! Nếu kể so ra
Tên tướng cướp đã nói qua
Bị đâm bởi giáo với ba trăm lần,
Nhân duyên khiến muôn phần đau khổ
Y cảm thọ hết sức khổ ưu.
Nhưng nếu so sánh khổ ưu
Ở nơi Địa ngục, bị ngưu đầu và
Các mã diện căng ra mặt đất,
Lấy cọc sắt nung đỏ đóng ngay
Vào hai chân và hai tay,
Đóng vào giữa ngực cọc đây đỏ lừng
Hình phạt từng gọi là ‘năm cọc’,
Thọ hình thật thảm khốc đớn đau,
Thống khổ, khốc liệt biết bao !
Nhưng không thể chết khi nào chưa xong
Phần ác nghiệp khó mong tiêu diệt.
Các Tỷ Kheo ! Nên biết tiếp đây :
Ngục tốt lại bắt người này
Nằm xuống, rồi chặt người này nhiều phen
Bằng búa, khiến y bèn rên xiết
Thọ lãnh sự khốc liệt khổ đau
Nhưng y chưa thể chết đâu
Khi nào ác nghiệp dài lâu chưa cùng,
Rồi ngục tốt lại dùng nhiều cách
Như là cách dựng ngược hai chân
Đầu chúc xuống, khổ muôn phần
Hay cột người ấy toàn thân dập vùi
Vào chiếc xe, chạy lui chạy tới
Trên nền lửa rực với than hừng,
Rồi đặt người ấy lên sườn
Ngọn núi cháy đỏ khôn lường, đốt nung.
Rồi ngục tốt lại dùng hình phạt
Quẳng tội nhân vào vạc dầu sôi
Được đun cháy rực liên hồi
Y bị chìm xuống và rồi nổi lên,
Hoặc trôi dạt bốn bên, ngang dọc,
Sự thống khổ thảm khốc nơi đây,
Nhưng y không thể chết ngay
Đến khi ác nghiệp người này được tiêu.
Các Tỷ Kheo ! Ngưu đầu mã diện
Lại quăng nghiến người ấy vào nơi
Đại địa ngục kia tức thời
Nó có bốn góc, bốn nơi cửa vào
Chia thành phần bằng nhau, tường sắt
Có mái sắt lợp kín bên trên
Địa ngục sắt nung đỏ lên
Trăm do-tuần rộng, ngang trên dưới đều.
Luôn có mặt , được neo thẳng đứng.
Các Tỷ Kheo ! Nhiều những pháp môn
Nói về địa ngục Quỷ môn
Nhưng khó nói đủ, vì không thể nào
Nói cho hết khổ đau địa ngục.
( Cõi thú )
Các Tỷ Kheo ! Tiếp tục nói qua
Có những loại sinh vật, mà
Luân hồi trôi nổi gọi là bàng sanh
Loài có thở, hiền lành ăn cỏ
Như trâu, bò, dê, thỏ, ngựa, nai…
Ăn cỏ ướt, cỏ khô hoài,
Với răng nhai nghiến cỏ đây hằng ngày.
Những người ngu trước đây hưởng thọ
Và đã có làm ác đời này,
Sau khi mạng tận thân vầy
Sinh ra cộng trú loài đây, tức là
Loài hữu tình trải qua ăn cỏ.
Các Tỷ Kheo ! Lại có chúng sanh
Sinh vật thuộc loại bàng sanh
Có hơi thở và chỉ dành ăn phân
Khi ngửi thấy mùi phân phảng phất
Chúng lật đật chạy tới, nghĩ vầy :
‘Chúng ta sẽ ăn ở đây’.
Ví như Phạm-chí chạy ngay đến dành
Khi ngửi mùi hiến sanh tế lễ
Nghĩ rằng : ‘Chúng ta sẽ ăn đây’,
Như các loài gà, heo này
Hoặc giả-can, chó… hằng ngày kiến ăn
Có hơi thở, ăn phân – sinh vật.
Người ngu ấy quả thật trước đây
Đã từng hưởng thụ nơi này
Làm các ác nghiệp ở đây vô cùng,
Khi thân hoại mạng chung, tức khắc
Sinh cộng trú với các loài đây
Tức hữu tình ăn phân này.
Loại thấp sinh – gọi như vầy cho thông
Có hơi thở, sinh trong ẩm thấp,
Già, chết trong ẩm thấp mịt mùng
Tối tăm – như các côn trùng,
Dòi, sâu, đom đóm, gián cùng bọ hung…
Và nói chung gồm các sinh vật
Loại ẩm thấp, có thở như vầy.
Lại nữa, các Tỷ Kheo này !
Loài sinh trong nước đêm ngày lội bơi
Già trong nước, chết nơi nước đó
Là loài có hơi thở, như là
Cá, rùa, cá sấu, ba ba,
Hay sinh vật khác sinh ra nơi này.
Các Tỷ Kheo ! Do đầy nghiệp ác
Sinh vật khác sinh ra ở nơi
Môi trường bất tịnh thúi hôi
Già, chết trong bất tịnh, hôi thúi này
Thuộc bang sanh, loài đây có thở
Sinh trong chỗ cá, thịt thúi tha
Như bọ hung, dòi sinh ra
Trong cá, thịt thúi, hay là được sinh
Trong đầm sình hôi tanh như thế.
Các Tỷ Kheo ! Là kẻ ngu này
Trước kia hưởng thụ ở đây
Làm các ác nghiệp nơi này nói chung,
Khi thân hoại mạng chung, sinh tới
Cộng trú với loại hữu tình này.
Rất nhiều điều để trình bày
Bàng sanh các loại nghiệp dày khó so
Nhưng thật khó nói cho đầy đủ
Vì đau khổ bàng sanh quá nhiều.
Ví như, này các Tỷ Kheo !
Có một khúc gỗ lều bều trôi qua
Trên mặt biển bao la, sâu rộng
Ở khúc gỗ có bộng lỗ này,
Sóng gió thổi dạt đông tây,
Lúc dạt nam bắc, lúc xoay mọi chiều.
Một con rùa mắt đều mù cả
Tận dưới đáy biển cả ẩn thân,
Trăm năm trồi lên một lần.
Các Tỷ Kheo ! Cứ như phần nêu trên
Khi trồi lên làm sao đầu nó
Có thể chui đúng lỗ bộng cây ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Thật quá gay !
Được chăng đi nữa trúng đây một lần
Sau vạn lần nổi lên như vậy ”.
– “ Các Tỷ Kheo ! Việc ấy gian nan
Nhưng so ra còn dễ dàng
Với sự trở lại thế gian làm người.
Đó là lời Như Lai tuyên bố
Khi người ngu sinh chỗ tối tăm,
Sinh vào đọa xứ đọa trầm
Ở đó chẳng có duyên & nhân pháp hành,
An tịnh hành, thiện hành chẳng có,
Cũng chẳng có phước hành thanh cao,
Chỉ có ăn thịt lẫn nhau,
Ăn thịt kẻ yếu, càng sâu ác hành.
Các Tỷ Kheo ! Sinh linh đền tội
Nơi đọa xứ quá đổi lâu dài,
Đến thời thoát khỏi nơi đây
Trở lại nhân thế nhập thai làm người
Thì làm người đui, què, câm, điếc,
Trong gia đình hạ liệt thành phần
Làm nghề đan tre, đi săn,
Làm xe nghèo khó, đổ phân bần cùng,
Không đủ ăn, đồ dùng thiếu thốn,
Quần áo rách, khốn đốn mưu sinh,
Thân hình thô xấu, khó nhìn
Lùn thấp, mang tật bẩm sinh, cùng là
Thiếu đồ ăn, uống và đồ mặc,
Xe cộ hoặc hương liệu, giường nằm,
Nơi ở bần tiện, tối tăm
Do dư nghiệp ác đã thầm tạo ra.
Thân, khẩu và ý-ác-hành ấy
Khi thân hoại mạng chung, sinh qua
Cõi dữ, đọa xứ xấu xa
Hoặc sinh địa ngục thật là khổ thay !
Các Tỷ Kheo ! Như vầy ví dụ :
Người có thú đánh bạc đỏ đen
Trong canh đổ bác đầu tiên
Mất cả tài sản, mất liền vợ con
Cuối cùng còn phải mang tù tội.
So tội lỗi kẻ đánh bạc đây
Thì người ngu tạo tội này
Rất nhiều ác quả hưởng ngay chẳng lành,
Thân, khẩu, ý-ác-hành đủ loại,
Khi thân hoại, sinh tới tức thì
Cõi dữ, đọa xứ, A-tỳ…
Đọa xứ viên mãn dành vì kẻ ngu.
(Người Hiền Trí)
Các Phích-Khu ! Ba điều cao thượng
Ba đặc điểm, đặc trưng, hay phần
Đặc ân của bậc trí nhân
Thế nào giải thích ba phần nói trên ?
Các Tỷ Kheo ! Trí hiền suy nghĩ
Đều suy nghĩ về thiện-tư-duy,
Thiện hành, thiện ngữ hành trì.
Nếu người trí không tư duy như vầy
Làm sao người trí này biết rõ :
‘Chính vị đó kẻ trí, Chân nhân’.
Này các Tỷ Kheo ! Vì rằng
Nghĩ lành, thiện ngữ, thiện hành – vị đây
Đều thực hiện đêm ngày chân thiệt,
Do vậy, người trí biết rõ vầy.
Các Tỷ Kheo ! Người trí này
Ba loại lạc hỷ có ngay hiện thời :
* Người trí ngồi giữa hội chúng lớn.
Bên đường lớn xe cộ lại qua
Hay tại ngã tư, ngã ba,
Nếu thấy người trí, người ta nghĩ liền
Câu chuyện riêng thích hợp vị ấy :
“Người trí đấy từ bỏ sát sanh,
Từ bỏ trộm cướp chẳng lành,
Từ bỏ tà hạnh dục tình, dối gian,
Bỏ, không màng rượu men, rượu nấu,
Người trí thấu suy nghĩ của người
Cho nên suy nghĩ tức thời :
‘Chuyện người ta đã nghĩ nơi ta vầy,
Những pháp này nơi ta có thật,
Và ta thật có những pháp này”.
Là lạc hỷ thứ nhất đây
Người trí đã cảm thọ ngay hiện thời.
* Các Tỷ Kheo ! Thế rồi người trí
Thấy tên cướp đã bị hành hình
Với các hình phạt khủng kinh.
Người trí suy nghĩ : ‘Thật tình nơi ta
Những hình phạt trải qua thế đó
Thật không có nơi ta như vầy,
Ta không có những pháp này !’
* Lại nữa, khi người trí này leo lên
Ngồi trên giường hay trên ghế đó
Lúc ấy có thiện nghiệp vị này
Đã làm lâu dài trước nay
Thân, khẩu, ý-thiện-hành nay cận kề
Treo áp, nằm, treo đè người ấy
Người trí đấy suy nghĩ như sau :
‘Ta không làm điều ác nào
Không làm tội lỗi, vướng sâu hung tàn
Ta hoàn toàn làm điều phước, thiện
Thường làm chuyện chống sợ hãi này
Với những thiện nghiệp như vầy
Thiện thú, lạc cảnh đường này trú an’.
Vị ấy không than van, buồn bực
Không gào khóc, đấm ngực rên la
Không bị bất tỉnh ngã ra.
Là sự lạc hỷ thứ ba như vầy
Được cảm thọ trong ngay hiện tại.
Các Tỷ Kheo ! Vị ấy trí hiền
Thân-thiện-hành làm cần chuyên,
Thiện-hành khẩu, ý thường xuyên thực hành,
Khi mạng chung, liền sanh thiện thú
Sinh Thiên giới, cộng trú cõi đời…
Nếu ai đúng đắn mở lời
Nói về người trí ấy, thời công tâm
Phải nói rằng hoàn toàn xứng đáng
Được tán thán, tốt đẹp hoàn toàn.
Cũng như nói về Thiên đàng
Một cách đúng đắn về hàng Chư Thiên
Phải nói rằng cõi Thiên giới ấy
Rất khả ái, hoàn toàn đẹp thay !
Các Tỷ Kheo ! Vấn đề đây
Không dễ ví dụ cõi này Thiên cung
Vì Thiên giới vô cùng an lạc.
(Cõi Thiên)
Một vị Tỷ Kheo khác nghe vầy
Liền bạch Đức Thế Tôn ngay :
– “ Bạch Thế Tôn ! Kính xin Ngài từ bi
Cho Chúng Tỳ Kheo một ví dụ ”.
Đức Điều Ngự liền nói như vầy :
– “ Ví như, các Tỷ Kheo này !
Chuyển-luân Vua Thánh đêm ngày an như
Bảy món báu, bốn như-ý-đức
Do nhân duyên này thực đủ đầy
Cảm thọ lạc hỷ ở đây.
Như vậy bảy món báu này là sao ?
Hãy nói vào Vua sát-Đế-Lỵ
Đã làm lễ quán đảnh Tân Vương
Sửa sang, chấn chỉnh triều đường
Thực hành Chánh Pháp Thánh Vương âm thầm
Vào bố-tát ngày rằm, trai giới
Lên lầu cao, vua tới lễ đàn
Thì xe báu trời hiện sang
Đầy đủ vành, trục và ngàn căm xen
Thấy như vậy, vua bèn suy nghĩ :
“Nghe nói Sát-Đế-Lỵ vua nào
Được Thiên bảo luân hiện vào
Thì vị vua ấy dự vào Thánh Vương
Chuyển Luân Vương cõi đời, sẽ được
Bảy thứ báu lần lượt có qua
Chuyển Luân Thánh Vương là ta
Vì xe trời báu hiện ra tức thời”.
Rồi đức vua từ nơi bảo tọa
Đứng thong thả, vai đắp thượng y
Vua nói là : “Hỡi này xe báu !
Hãy lăn khắp để dạo thế gian
Và hãy chinh phục hoàn toàn !”.
Sau đó Vua đã ngự an xe trời
Bốn binh chủng đồng thời hộ giá
Đi theo sau, tất cả nghiêm trang.
Chỗ nào xe báu dừng ngang
Vua cùng binh, tướng các hàng trú an.
Ở phương Đông, Vua đang đối địch
Thấy Thánh Vương, cảm kích phục tùng
Đến yết kiến đấng Cửu Trùng
Thưa rằng : “Hoan hỷ đón mừng Đại Vương !
Xin tùy thuộc Đại Vương định đoạt
Chúng hạ thần an lạc phục tùng.
Đại Vương hãy giáo huấn chung
Thần dân trong nước thảy cùng thực thi”.
Chuyển Luân Vương đã vì lời thỉnh
Khuyên dạy rằng : “Chân chính con đường
Đưa đến lợi ích vô lường
Là giữ ngũ giới tinh tường, nghiêm minh :
Không sát sinh, cũng đừng trộm cướp
Không nói láo , không được tà dâm
Không được uống rượu, mê tâm,
Hãy nên ăn uống đúng tầm, thích nghi”.
Rồi các vì địch vương tất cả
Ở phương Đông đều đã trở thành
Chuyển Luân Vương được uy danh càng nhiều.
Các Tỷ Kheo ! Một điều cơ xảo
Thiên-xa báu lặn xuống biển sâu
Từ phương Đông, rồi trồi đầu
Lên phương
Các địch vương nơi này cũng thế
Đều hoan hỷ dùng lễ đón mừng.
Cầu thỉnh Chuyển Luân Thánh Vương
Ngũ giới Vương lại dạy đường lợi an.
Rồi xe báu thẳng đàng lặn xuống
Biển phương
Chiêu an rồi, từ phương Tây
Thiên-xa lặn xuống, qua ngay bên bờ
Về phương Bắc, giong cờ gióng trống
Bốn binh chủng hộ tống uy nghiêm
Phương Bắc, xe báu dừng liền
Chuyển Luân Vương đã trú yên tạm thời.
Các địch vương bấy thời nghe tiếng
Đến yết kiến Chuyển Luân Thánh Vương :
“Hoan nghênh đón mừng Đại Vương
Xin ngài giáo huấn tinh tường chúng tôi”.
Chuyển Luân Vương tức thời giáo giới :
“Hỡi các vị ! Thiện lợi con đường
Đưa đến lợi ích vô lường
Là giữ ngũ giới tinh tường, nghiêm minh :
Không sát sinh, cũng đừng trộm cướp,
Không nói láo, không được tà dâm,
Không được uống rượu, mê tâm,
Hãy nên ăn uống đúng tầm, thích nghi”.
Phương Tây,
Rồi phương Bắc, đều đã trở thành
Chuyển Luân Vương được uy danh lẫy lừng.
Các Tỷ Kheo ! Không dừng đâu cả
Sau khi đã chinh phục, chiêu yên
Địa cầu cho đến hải biên,
Thiên-xa báu trở về liền kinh đô
Đi thẳng vô pháp đình tiền diện
Trước nội cung, vĩnh viễn trưng bày
Xe báu quốc bảo, quý thay !
Được xuất hiện cho Vua này bảo xa.
Tiếp đó là xuất hiện voi báu
Cũng là một quốc bảo vô lường
Cho vị Chuyển-luân Thánh vương
(Quán đảnh Sát-Đế-Lỵ thường nêu danh).
Voi thuần trắng, phi hành tự tại
Trên hư không, sức lại phi thường
U-Pô-Sa-Thá tinh tường ( Uposatha )
Là tên voi đó. Thánh vương khi mà
Thấy U-Pô-Sa-Tha voi quý
Tâm hoan hỷ hết sức, nghĩ ngay :
‘Lành thay được cỡi voi này !
Nếu nó chịu phục dưới tay ta vầy’.
Các Tỷ Kheo ! Có ngay hiện tượng
Như một con hiền-tượng thanh cao
Chịu sự điều ngự dài lâu,
Voi báu tự đến nương vào Thánh vương,
Chịu để cho Thánh vương điều ngự.
Vua muốn thử voi báu quý này
Sáng sớm cỡi voi đi ngay
Thăm khắp quả đất đến rày hải biên
Rồi về liền Ku-Sa-Va-Tí ( Kusavati )
Là kinh đô của vị Thánh vương
Kịp giờ ăn sáng lệ thường,
Đây là voi báu Thánh vương có rồi.
Các Tỷ Kheo ! Rồi thời ngựa báu
Liền xuất hiện tuyệt hảo, phi mau
Thuần trắng, nhưng lại đen đầu
Như quạ. Bờm ngựa cũng màu đen mun
Có thần lực, hư không bay dạo
Tên ngựa báu : Vá-Lá-Há-Ka ( Valahaka )
Ngựa báu bay đến từ xa
Chịu sự điều ngự như là long-câu,
Một hiền-mã biết bao quý phái.
Thánh vương ấy liển cỡi ngựa này
Đi khắp nam, bắc, đông, tây,
Khắp quả đất, cho đến ngoài hải biên
Rồi về liền Ku-Sa-Va-Tí
Kịp điểm tâm chuẩn bị cho Ngài.
Này các Tỷ Kheo ! Như vầy
Xuất hiện ngựa báu tuyệt hay, trung thành.
Sát-Đế-Lỵ vua lành quán đảnh
Tức Vua Thánh Chuyển-luân-vương này
Lại nữa, châu báu hiện đầy
Lưu ly, vàng, bạc, ngọc đây sáng hoài
Có tám mặt khéo mài, khéo dũa
Hào quang của châu báu quý thuần
Chiếu sáng khắp một do-tuần (1)
Vua thử châu báu, dàn quân tức thì
Bốn binh chủng tinh-kỳ rực rỡ
Châu báu được đặt ở ngọn cờ,
Từ quân ký, lúc bấy giờ
Sáng rực khiến đại quân chờ tiến quân
Có thể tiến rần rần lập tức
Dầu đêm tối như mực trước sau,
Đó là xuất hiện bảo châu
Cho vị quán-đảnh thuộc vào Thánh vương.
Các Tỷ Kheo ! Am tường mọi chuyện
Nữ báu lại xuất hiện, quý sang
Mỹ miều, cử chỉ đoan trang,
Khả ái tuyệt mỹ, mịn màng làn da,
Thân nàng ta không cao, không thấp,
Không gầy quá, không mập, không đen,
Nhan sắc loài người vượt trên
Ánh sáng dung sắc Chư Thiên sánh bằng.
Nữ báu thân hình hằng êm mịn
Có đặc tính như bông, như nhung.
Các Tỷ Kheo ! Khi lạnh run
Chân tay nữ báu vô cùng ấm êm,
______________________________
(1) : Do-tuần ( Yojana ) là đơn vị đo chiều dài cổ xưa ở Ấn-Độ.
Theo Tương Ưng Bộ Kinh 1 do-tuần = 2.91 lý ( 4.68 Km ). Theo
hai học-giả hiện đại Fleet và Vost thì 1 do-tuần = 19.5 Km.
Khi trời nóng, trở nên lạnh mát,
Thân nữ báu tỏa các mùi hương
Mùi thơm chiên-đàn tỏa thường
Miệng tỏa hương ngát thơm dường liên hoa.
Các Tỷ Kheo ! Thật là hữu phước
Nữ báu thường dậy trước, ngủ sau,
Khi Thánh vương đã ngủ sâu
Nữ báu quán xuyến việc nào cũng an
Làm Vua càng thỏa thích, sủng ái.
Nữ báu ấy một dạ trung thành
Khiến Vua tin tưởng, an lành
Sự xuất hiện nữ báu dành cho Vua.
Các Tỷ Kheo ! Cũng chưa chấm dứt
Cư-Sĩ báu lập tức đến ngay
Giúp Vua Sát-Đế-Lỵ đây
Đã quán-đảnh Chuyển-luân này Thánh vương.
Cư-Sĩ báu tinh tường, viên mãn
Chứng thiên nhãn, nghiệp dị thục sanh
Nhờ vào thiên nhãn, thấy rành
Châu báu chôn dấu để dành khắp nơi
Thuộc có chủ hay thời không chủ.
Cư-Sĩ báu ưu tú tâu qua :
‘Tâu Đại Vương ! Chớ lo mà !
Thần sẽ xử lý thật là thích nghi
Tài sản gi Đại vương được hưởng’.
Muốn tuyệt đối tin tưởng vị này
Vua thử Cư-Sĩ báu đây,
Lên long thuyền lớn ran gay giữa dòng
Của sông Hằng, neo xong liền bảo
Cư-Sĩ báu : ‘Trẫm muốn có vàng’.
- ‘Tâu Đại Vương ! Truyền chèo sang
Bờ nào cũng được, lấy mang cho ngài’.
- ‘Cư-Sĩ ! Trẫm cần ngay vàng ấy
Ngay tại đây. Hãy lấy vàng đi !’.
Vị Cư-Sĩ báu tức thì
Thọc hai tay xuống nước, quỳ nhấc ngay
Một ghè đầy vàng ròng lấp lánh,
Rồi tâu Vua quán-đảnh (1) Thánh vương :
- ‘Đã đủ chưa, tâu Đại vương ?’
- ‘Này Cư-Sĩ ! Sự cúng dường ở đây
Đã đủ rồi, như vầy là đủ’.
Các Phích-Khú ! Như vậy chính là
Vị Cư-Sĩ báu hiện ra
Để phục vụ Vua quán-đảnh là Thánh vuơng.
Các Tỷ Kheo ! Kiên cường dũng kiện
Tướng-quân báu xuất hiện tức thì
Cho vua Sát-Đế-Lỵ ni,
Có tài thao lược ai bì được đâu !
Học thức cao, thông minh, sáng suốt
Lại thông thuộc các cách dùng binh,
Đáng tiến thì tiến thật nhanh
Đáng lùi lùi lại, đáng dừng dừng ngay,
Có khả năng trình bày khuyến nghị
Để vua Sát-Đế-Lỵ thành công.
Muốn cho Thánh vương an lòng
____________________________
(1) : Theo tập tục Ấn-Độ xưa , khi chính thức tuyên cáo địa vị kế thừa của Thái Tử để chuẩn bị lên ngôi Vua , hoàng tộc lấy nước 4 biền rưới lên đỉnh (đảnh) đầu Thái-tử., Do đó Thái-tử cũng được gọi là“Quán đỉnh vương tử ”. Điều đó có ý rằng sau này vị vương tử có thể thống trị toàn bộ lãnh thổ và nhân dân trong bốn biển.
Tướng-quân đến trước bệ rồng triều ca
Rồi tâu qua vị Thánh vương đó :
- ‘Xin Đại Vương chớ có lo âu !
Thần sẽ cố vấn nông sâu
Cho Đại Vương để ngài mau tựu thành’.
Các Tỷ Kheo ! Điều lành xuất hiện
Tướng-quân báu cho Thánh vương này
Quán-đảnh Sát-Đế-Ly đây
Như vậy xuất hiện đủ đầy, khâm tuân
Cho Chuyển-luân Thánh vương bảy báu.
Các Tỷ Kheo ! Thất bảo có rồi
Vua Sát-Đế-Lỵ đồng thời
Bốn như-ý-đức có nơi Vua này.
Sao là bốn điều đây như vậy ?
* Thánh vương ấy khả ái, đẹp trai
Cử chỉ thanh lịch, nghiêm oai
Tuyệt luân sắc diện vượt ngoài thế nhân,
Thấy xa hơn thế nhân vượt bực,
Đó là như-ý-đức đầu tiên.
* Thánh vương thọ mạng trường niên
Như-ý-đức ấy kể liền thứ hai.
* Ít bệnh tật, ít tai ương khuấy
Thánh vương ấy thân nhiệt điều hòa,
Không quá lạnh, nóng trải qua
Điều hòa tiêu hóa thắng xa mọi người.
Thứ ba thời là như-ý-đức.
* Vua này được Gia Chủ, Bàn-môn
Yêu mến, ái mộ, kính tôn.
Như người cha được các con yêu vì.
Các Tỷ Kheo ! Mọi thì các vị
Là Gia-chủ, Phạm-chí mến thương
Vua sát-Đế-Lỵ Thánh vương.
Thánh vương cũng rất mến thương, yêu vì
Các Gia-chủ, các vì Phạm-chí
Như người cha yêu quý các con.
Chư Tỷ Kheo ! Các Bàn-môn
Cùng các Gia-chủ kính tôn vô lường
Khi Thánh vương hoa viên trực chỉ
Các Phạm-chí, Gia-chủ theo sau
Tâu rằng : ‘Đại vương thanh cao !
Hãy đi chầm chậm, đừng mau đăng trình
Để chúng thần được nhìn thấy kỹ
Chiêm ngưỡng vị Thánh vương mọi bề !’.
Vua Thánh bảo người đánh xe :
‘Cho xe đi chậm, đi kề chúng dân
Để trẫm thấy Bàn-môn, Gia-chủ
Được trông thấy đầy đủ, lâu dài’.
Người đánh xe vâng lệnh ngài
Điều khiển xe tiến khoan thai, từ từ
Chúng Tăng ! Đây là như-ý-đức
Thứ tư của một bậc Thánh vương.
Vua Sát-Đế-Lỵ tinh tường
Suy nghĩ : ‘Ta hãy khai trương xây hồ
Trồng hàng cây quanh hồ sen đó
Cây Tha-la long-thọ hàng trăm
Cách khoảng một trăm cung tầm’.
Chuyển-luân Vua Thánh thâm trầm khoan thư
Có đầy đủ bốn như-ý-đức.
Các Tỷ Kheo ! Về bực Vua này
Các ông suy nghĩ sao đây ?
Chuyển-luân Thánh-chúa đủ đầy an như
Bảy món báu, bốn như-ý-đức
Do nhân duyên ấy thực tự lòng
Có cảm thọ lạc hỷ không ? ”.
– “ Bạch Phật ! Vị ấy viên thông như vầy
Chỉ cần đầy một món báu đó
Do vậy, có cảm thọ vui an
Huống chi đầy đủ hoàn toàn
Bốn như-ý-đức, bảy hàng báu đây ”.
Đức Thế Tôn nhặt ngay hòn đá
Bằng bàn tay, hỏi cả như sau :
– “ Các Tỷ Kheo ! Nghĩ thế nào ?
Hòn đá này nếu so vào Tuyết Sơn
Là dãy núi cao hơn tất cả,
Thì hòn đá so sánh ra sao ? ”.
– “ Bạch Phật ! Có thể đáp mau
Thật quá chênh lệch so vào chuyện đây
Hòn đá này thật là quá nhỏ
Với Tuyết Sơn núi đó cao to
Nó không đáng kể là bao
Không bằng vạn triệu so vào Tuyết Sơn ”.
– “ Cũng như vậy, vị Chơn Thánh-chủ
Chuyển-luân-vương đầy đủ các phần
Là bảy món báu quý trân,
Bốn như-ý-đức. Do nhân duyên này
Sẽ cảm thọ đủ đầy lạc hỷ,
Sự lạc hỷ nếu sánh Chư Thiên
Với sự Thiên-lạc cõi Thiên
Thì không đáng kể, chẳng tuyền cân phân,
Không bằng nghìn vạn lần Thiên lạc.
Lại điều nữa, này chư Tăng-Già !
Nếu người trí ấy trải qua
Thời gian lâu lắm – sinh ra làm người
Sẽ sinh nơi gia đình quyền quý
Sát-Đế-Lỵ, vọng tộc hoặc là
Bàn-môn, Cư-Sĩ đại gia
Giàu sang vô số vàng và châu ngân,
Phong phú phần lúa thóc, tài vật.
Hơn nữa, rất khả ái, đẹp trai
Dung sắc tối thượng hòa hài
Đầy đủ thức uống, có hoài thức ăn,
Dư thừa phần xe cộ, vải mặc,
Hương liệu, chỗ ở thật huy hoàng
Giường nằm, ánh sáng chứa chan
Vị ấy được sống an nhàn, vang danh,
Thân, khẩu, ý- thiện-hành có mãi.
Khi thân hoại mạng chung, vị này
Sinh Thiện thú, Thiên giới ngay.
Này chư Phích-Khú ! Điều này ví như
Người đánh bạc ngay từ canh bạc
(Đổ xúc xắc) tham gia đầu tiên
Thắng lớn, được rất nhiều tiền
Nhưng thật rất nhỏ nếu liền so ra
Canh bạc mà người trí hiểu biết
Sau khi hành tam nghiệp thiện-hành
(Là thân, khẩu, ý-thiện-hành)
Mạng chung sinh đến cỏi lành Chư Thiên
Hay cõi đời, thiện duyên phước đức.
Các Tỷ Kheo ! Địa vức đây là
Hoàn toàn viên mãn, tinh hoa
Của bậc có trí trải qua thực hành ”.
Đấng Cha Lành Phật Đà thuyết giảng
Pháp viên mãn hiền & ngu các hàng
Chư Tỷ Kheo trong đạo tràng
Hoan hỷ tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-
*
* *
( Chấm dứt Kinh số 129 : HIỀN NGU
– BÀLAPANDITA Sutta )