Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Phẩm "Chuyển Sanh" (Tổng Luận Kinh Đại Bát Nhã; Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng)

29/04/202012:15(Xem: 10100)
04. Phẩm "Chuyển Sanh" (Tổng Luận Kinh Đại Bát Nhã; Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha_226

PHẨM "CHUYỂN SANH"

Phần sau quyển 7 cho đến hết quyển 9, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Vãng Sanh” quyển thứ 02, MHBNBLM)

 


Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng)



 

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, Xá lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát xuất hiện từ đâu? Từ cõi khác vãng sanh đến cõi này hay từ cõi này xả thân đến cõi nào khác?

Phật bảo:

- Này Xá lợi Tử! Có vị xả thân từ cõi Phật ở phương khác đến sanh tại cõi này, có vị xả thân từ cõi trời Đỗ Sử Đa(1) sanh đến cõi này, có vị sống ở cõi này, khi xả thân lại quay về cõi này.

Nếu đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật, xả thân từ cõi Phật khác đến sanh ở cõi này, thì vị đại Bồ Tát ấy, chóng tương ưng với Bát nhã Ba la mật. Vì luôn luôn cùng tương ưng với Bát Nhã, nên xả thân từ cõi này, sẽ sanh về cõi Phật khác, rồi từ cõi Phật đó, sanh đến cõi Phật khác nữa; tại mỗi nơi sanh ra, thường được gặp chư Phật Thế Tôn, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, cho đến khi chứng được quả vị Giác ngộ tối cao, cũng không xa Phật.

Nếu đại Bồ Tát xả thân từ cõi trời Đỗ Sử Đa đến sanh ở cõi này, thì vị đại Bồ Tát ấy, phần nhiều trọn đời gắn liền với sáu pháp Ba la mật tự tại hiện tiền, thường chẳng quên mất. Nhưng khi xả thân vì không có phương tiện thiện xảo, nên sanh lại cõi người, được gặp chư Phật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen; tuy hành lục Ba la mật, nhưng các căn chậm lụt, các việc làm chẳng được thiện xảo lắm!

Nếu đại Bồ Tát xả thân từ trong cõi người, rồi sanh lại trong cõi người, thì đại Bồ Tát ấy, trừ bậc Bất thối chuyển ra, căn trí chậm lụt, tuy siêng tu hành tứ thiền, các Ba la mật khác, nhưng thiếu phương tiện thiện xảo, nên khi xả thân, sanh lại cõi người, các việc làm chẳng được thiện xảo lắm! Này Xá lợi Tử! Có đại Bồ Tát, nhập Sơ tịnh lự, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ tịnh lự, nhập từ vô lượng, nhập bi, hỷ, xả vô lượng, nhập Không vô biên xứ định, nhập Thức vô biên xứ định, Vô sở hữu xứ định, Phi tưởng phi phi tưởng xứ định, vì có phương tiện thiện xảo, nên chẳng theo sức của tịnh lự, vô lượng, vô sắc mà sanh trở lại cõi Dục, hoặc làm dòng dõi lớn Sát đế lợi, hoặc dòng dõi Bà la môn, hoặc Trưởng giả, hoặc Cư sĩ; vì muốn thành thục hữu tình, chứ không vì tham nhiễm đời sau.

Này Xá lợi Tử! Có vị đại Bồ Tát, vì có phương tiện thiện xảo, nên chẳng theo sức của tịnh lự, vô lượng, vô sắc mà sanh, hoặc là sanh ở các cảnh trời cõi Tứ đại thiên vương, hoặc sanh ở cõi trời Ba mươi ba, cõi trời Dạ ma, cõi trời Đỗ sử đa, cõi trời Lạc biến hóa, hoặc sanh ở cõi trời Tha hóa tự tại; vì muốn thành thục hữu tình, và vì muốn nghiêm tịnh cõi Phật, nên thường gặp chư Phật, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, không bỏ sót vị nào.

Này Xá lợi Tử! Có vị đại Bồ Tát, tu hành Bát Nhã, vì có phương tiện thiện xảo, nên xả thân ở nơi này, sanh đến cõi Phạm thế, làm Đại phạm vương, oai đức lẫy lừng hơn các Phạm chúng khác nhiều gấp trăm ngàn lần. Từ nơi cõi trời đang ở, dạo qua các cõi Phật, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác; trong đó, có đại Bồ Tát nào chưa chứng quả vị Giác ngộ tối cao, khuyên chứng quả vị Giác ngộ tối cao; đã chứng quả vị Giác ngộ tối cao tột, mà chưa chuyển pháp luân, thì thỉnh chuyển pháp luân, vì muốn lợi lạc cho các hữu tình.

Này Xá lợi Tử! Có đại Bồ Tát, vì trọn đời gắn liền với phương tiện thiện xảo, nhập tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định; tu hành lục Ba la mật, an trụ mười tám pháp không, an trụ pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v…, tu hành 37 pháp trợ đạo, 18 bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vị đại Bồ Tát ấy, chẳng theo sức của tịnh lự, vô lượng, vô sắc mà sanh, hiện tiền phụng sự, thân cận cúng dường Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ở nơi cõi Phật đó, siêng tu phạm hạnh. Xả thân từ cõi Phật đó, sanh đến cõi trời Đỗ sử đa, khi hết tuổi thọ, các căn không khuyết, trí nhớ minh mẫn, vô lượng, vô số, trăm ngàn ức Thiên chúng vây quanh đi theo, dùng thần thông dạo chơi, rồi lại sanh vào cõi người, thị hiện tu khổ hạnh, nên biết vị đại Bồ Tát ấy, ở trong Hiền kiếp này, nhất định chứng được quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển bánh xe pháp mầu nhiệm, độ vô lượng chúng sanh.

Này Xá lợi Tử! Có đại Bồ Tát, chứng được sáu phép thần thông, tự tại dạo chơi, từ thế giới này, đến thế giới khác. Có các thế giới, chẳng nghe tên Phật, tên Pháp, tên Tăng. Vị đại Bồ Tát ấy, đến thế giới đó, xưng dương tán thán ngôi báu Phật, Pháp, Tăng, khiến các hữu tình sanh lòng tin trong sạch, sâu sắc. Vị đại Bồ Tát ấy, xả thân ở cõi này, sanh vào cõi có Phật, tu Bồ Tát hạnh, dần dần chứng được điều mong cầu là quả vị Giác ngộ tối cao, lợi ích an lạc các loài hữu tình.

Lại nữa, này Xá lợi Tử! Có đại Bồ Tát, trước đã tu tập sáu phép Ba la mật và vô lượng, vô biên pháp Phật khác, khi mới phát tâm, đã có thể lần lượt chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển bánh xe pháp mầu nhiệm, độ vô lượng chúng sanh vào cảnh giới Vô dư y Đại Niết bàn; rồi sau đó đại Bồ Tát ấy nhập Niết bàn, Chánh pháp đã nói, tồn tại trên đời một kiếp, hoặc hơn một kiếp, lợi lạc vô biên cho các loài hữu tình.

Này Xá lợi Tử! Có đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã, chứng đắc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Đối với chín bậc định, đạt đến chỗ vượt qua thứ lớp, thuận nghịch vào ra, tự tại dạo chơi: Từ Sơ tịnh lự khởi, nhập Diệt tận định; từ Diệt tận định khởi, nhập Đệ nhị tịnh lự; từ Đệ nhị tịnh lự khởi, nhập Diệt tận định; từ Diệt tận định khởi, nhập Đệ tam tịnh lự; từ Đệ tam tịnh lự khởi, nhập Diệt tận định; từ Diệt tận định khởi, nhập Đệ tứ tịnh lự; từ Đệ tứ tịnh lự khởi, nhập Diệt tận định; từ Diệt tận định khởi, nhập Không vô biên xứ định; từ Không vô biên xứ định khởi, nhập Diệt tận định; từ Diệt tận định khởi, nhập Thức vô biên xứ định; từ Thức vô biên xứ định khởi, nhập Diệt tận định; từ Diệt tận định khởi, nhập Vô sở hữu xứ định; từ Vô sở hữu xứ định khởi, nhập Diệt tận định; từ Diệt tận định khởi, nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ định; từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ định khởi, nhập Diệt tận định; từ Diệt tận định khởi, nhập Sơ tịnh lự. Vị đại Bồ Tát này, tu hành Bát Nhã, đối với các bậc định, đã đạt đến phương tiện thiện xảo, vượt qua thứ lớp, tự tại dạo chơi; nhưng ở trong đó, không nhiễm, không đắm.

Này Xá lợi Tử! Vị đại Bồ Tát ấy, tuy đã đắc 37 pháp trợ đạo; tuy đã đắc tam giải thoát môn; tuy đã trụ tứ thánh đế; tuy đã đắc tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, nhưng chẳng thủ 4 quả Thanh văn, hoặc quả vị Độc giác. Vị đại Bồ Tát ấy, tu hành Bát Nhã, phương tiện thiện xảo, dạy các hữu tình tu hành tất cả pháp trên, đắc bốn quả Thanh văn hoặc quả vị Độc giác. Vị đại Bồ Tát này, tuy đã tu hành 6 Ba la mật; tuy đã trụ 18 pháp không; tuy đã trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v…; tuy đã tu tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa; tuy đã tu thập địa Bồ Tát; tuy đã tu năm loại mắt, sáu phép thần thông; tuy đã tu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; tuy đã tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tuy đã tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, mà chẳng thủ quả vị Giác ngộ tối cao.

Này Xá lợi Tử! Vị đại Bồ Tát ấy, tu hành Bát Nhã, phương tiện thiện xảo, dạy các hữu tình tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Nên biết, các vị đại Bồ Tát ấy, trụ ở bậc Bất thối chuyển(2), an trụ Bát Nhã, mới có thể làm được việc này.

Này Xá lợi Tử! Vị đại Bồ Tát ấy đã từ lâu, an trụ lục Ba la mật và vô lượng, vô biên pháp Phật khác, nghiêm tịnh cõi trời Đỗ sử đa. Nên biết vị đại Bồ Tát này, ở trong Hiền kiếp, nhất định chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.

Nếu vị đại Bồ Tát tu tất cả các thiện pháp, mà đối với Thánh đế chưa thể thông đạt. Nên biết, vị đại Bồ Tát này, một đời bị trói buộc.

Này Xá lợi Tử! Có đại Bồ Tát an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã, thường siêng tinh tiến nhiêu ích hữu tình. Miệng thường chẳng nói đến lời vô nghĩa, thân ý chẳng khởi dẫn nghiệp vô nghĩa. Có đại Bồ Tát tu hành sáu pháp Ba la mật, thường siêng tinh tiến nhiêu ích hữu tình. Từ một nước Phật đến một nước Phật, dứt ba ác thú đạo(3) cho các hữu tình, phương tiện an lập trong thiện thú đạo.

Lại nữa, Này Xá lợi Tử! Có đại Bồ Tát, tuy trụ sáu phép Ba la mật, nhưng thường lấy bố thí làm đầu, dũng mãnh tu tập, bố thí cho tất cả hữu tình những nhu cầu cần thiết: Quần áo, dường chõng, thức ăn, thức uống v.v…, xong khuyên họ tu ba đạo Bồ đề(4).

Có đại Bồ Tát, tuy trụ sáu pháp Ba la mật, nhưng thường lấy tịnh giới làm đầu, dũng mãnh tu tập; thân, ngữ, ý đầy đủ luật nghi thanh tịnh, khuyên các hữu tình, cũng nên tu tập luật nghi như vậy.

Có đại Bồ Tát, tuy trụ sáu pháp Ba la mật, nhưng thường lấy an nhẫn làm đầu, dũng mãnh tu tập, xa lìa vĩnh viễn tất cả các tâm giận dữ, khuyên các hữu tình, cũng nên tu tập an nhẫn như vậy.

Có đại Bồ Tát, tuy trụ sáu pháp Ba la mật, nhưng thường lấy tinh tấn làm đầu, dũng mãnh tu tập tất cả pháp lành, và cũng khuyên các hữu tình nên tu tập tinh tấn như vậy.

Có đại Bồ Tát, tuy trụ sáu pháp Ba la mật, nhưng thường lấy tịnh lự làm đầu, dũng mãnh tu tập, đầy đủ các định thù thắng, cũng khuyên các hữu tình nên tu tập các định thù thắng như vậy.

Có đại Bồ Tát, tuy trụ sáu pháp Ba la mật, nhưng thường lấy Bát Nhã làm đầu, dũng mãnh tu tập đầy đủ tất cả trí tuệ, cũng khuyên các hữu tình nên tu tập trí tuệ thù thắng như vậy, khiến mau viên mãn.

Có đại Bồ Tát lúc thực hành Bát nhã Ba la mật biến thân hình như Phật chỉ vì chúng sanh trong địa ngục, trong súc sanh, trong ngạ quỷ mà thuyết pháp.

Có đại Bồ Tát lúc thực hành sáu Ba la mật biến thân hình như chư Phật đến khắp mười phương hằng sa thế giới để thuyết pháp cho chúng sanh, cũng để cúng dường chư Phật và nghe Phật pháp, cũng để xem xét lựa lấy những tướng danh thanh tịnh tốt đẹp của các cõi nước hầu phát khởi quốc độ của mình cho được siêu thắng, hàng đại Bồ Tát trong đây đều là bậc nhất sanh bổ xứ(5).

Có đại Bồ Tát lúc thực hành sáu Ba la mật thành tựu ba mươi hai tướng tốt, sáu căn tịnh lợi. Vì sáu căn của Bồ Tát đây tịnh lợi nên được chúng sanh mến kính. Do chúng sanh đã mến kính, Bồ Tát nầy lần lần đem pháp Tam thừa cứu độ họ.

Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát nhờ thực hành Bát nhã Ba la mật như thế, nên không lìa thập thiện đạo, không trọng mình khinh người. Nhờ nhân duyên này nên các pháp Phật thường hiện khởi, các pháp dục ác bất thiện thuộc thân ngữ ý không phát sanh.

Bấy giờ, Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào phải giữ tam nghiệp thanh tịnh?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Này Xá lợi Tử! Nếu Bồ Tát khởi nghĩ: Đây là thân ta, đây là lời ta nói, đây là ý của ta. Đó là thủ đắc nghiệp thân khẩu ý. Đã thủ đắc tam thân thì vì thân mà khởi nghiệp hoặc xan tham, phạm giới hoặc sân nhuế, giải đãi hoặc tán loạn, ác tuệ. Nếu khởi các tâm này, thì chẳng gọi là đại Bồ Tát. Các đại Bồ Tát tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã mà khởi ba loại thô trọng về thân, ngữ, ý, là điều không có. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát, tu hành sáu phép Ba la mật, có khả năng làm cho tam nghiệp được thanh tịnh. Đó chính là đạo Giác ngộ. Các đại Bồ Tát tu hành sáu phép Ba la mật, chẳng thủ đắc thân nghiệp và cái thô trọng của thân, chẳng thủ đắc ngữ nghiệp và cái thô trọng của ngữ, chẳng thủ đắc ý nghiệp và cái thô trọng của ý; chẳng thủ đắc bố thí, chẳng thủ đắc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; chẳng thủ đắc Thanh văn, chẳng thủ đắc Độc giác, chẳng thủ đắc Bồ Tát, chẳng thủ đắc Như Lai. Như vậy, gọi là đạo Giác ngộ của đại Bồ Tát. Vì sao? Vì đạo Giác ngộ, đối với tất cả các pháp, đều chẳng thủ đắc. Nếu tu được như vậy thì tiến đến đạo Giác ngộ không có gì trở ngại.

Khi ấy, Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Do duyên gì mà đại Bồ Tát tu hành sáu phép Ba la mật, hướng đến đạo Giác ngộ, không bị trở ngại?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát, khi tu hành sáu phép Ba la mật, chẳng đắm sắc, chẳng đắm thọ, tưởng, hành, thức; chẳng đắm mười hai xứ, mười tám gii, tứ thiền bát định, tứ thánh đế, mười hai nhân duyên, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Do những duyên đó, nên các đại Bồ Tát tu hành sáu phép Ba la mật tăng trưởng nhanh chóng, hướng đến đạo Giác ngộ, không gì ngăn trở được, đồng thời có thể mau viên mãn Nhất thiết trí trí, để thành tựu thắng trí vậy, mới đóng tất cả cửa dẫn đến ác thú, chẳng thọ báo bần cùng, hạ tiện của trời người, các căn đầy đủ, hình mạo đoan nghiêm; trời, người, A Tu la v.v… trong thế gian, đều tôn trọng cung kính cúng dường.

Xá lợi Tử lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do duyên gì mà đại Bồ Tát thành tựu thắng trí như vậy?

Phật Bảo:

- Này Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát này, vì thành trí này, nên thấy tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong vô số thế giới chư Phật trong mười phương, nghe hết Chánh pháp mà các đức Phật kia đã nói; thấy khắp tất cả Thanh văn và Bồ Tát Tăng trong hội đó; cũng thấy cảnh tượng thanh tịnh, công đức trang nghiêm của cõi đó. Đại Bồ Tát này, vì thành tựu trí này, nên chẳng khởi tưởng thế giới, chẳng khởi tưởng Như Lai, chẳng khởi tưởng Chánh pháp, chẳng khởi tưởng Bồ Tát, chẳng khởi tưởng Thanh văn, chẳng khởi tưởng Độc giác, chẳng khởi tưởng về mình, chẳng khởi tưởng về người, chẳng khởi tưởng cõi Phật.

Này Xá lợi Tư! Các đại Bồ Tát, vì do trí này, tuy hành bố thí, mà chẳng thủ đắc bố thí; tuy hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, mà chẳng thủ đắc sáu phép Ba la mật, tuy trụ 18 pháp không, mà chẳng thủ đắc mười tám pháp không không; tuy đã trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v…; tuy đã tu tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa; tuy đã tu thập địa Bồ Tát; tuy đã tu năm loại mắt, sáu phép thần thông; tuy đã tu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; tuy đã tu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tuy đã tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, cho đến quả vị Giác ngộ tối cao mà chẳng thủ bất cứ pháp nào.

Như vậy, gọi là đại Bồ Tát đã thành tựu thắng trí. Các đại Bồ Tát, do thành tựu trí này, có thể chóng viên mãn tất cả Phật pháp, tuy có thể viên mãn tất cả Phật pháp, mà đối với các pháp, không chấp, không thủ, vì tánh của tất cả các pháp là không.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Có đại Bồ Tát tu hành sáu phép Ba la mật, đắc được năm nhãn thanh tịnh(6). Những gì là năm? Đó là nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn.

Khi ấy, Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh?

Phật dạy Xá lợi Tử:

- Này Xá lợi Tử! Có đại Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh, có thể thấy suốt một trăm do tuần; có đại Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh, có thể thấy suốt hai trăm do tuần, ba trăm do tuần hay bốn trăm do tuần v.v…, có đại Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh, có thể thấy suốt một châu Thiệm bộ hay thấy suốt hai cõi Đại châu, ba cõi Đại châu, bốn cõi Đại châu; có đại Bồ Tát đắc nhục nhãn thanh tịnh, có thể thấy suốt Tiểu thiên thế giới, Trung thiên thế giới hay có thể thấy suốt Đại thiên thế giới.

Xá lợi Tử lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh?

Phật bảo:

- Này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh, có thể thấy tất cả chúng trời trong cõi Tứ đại thiên vương, có thể thấy tất cả trời Ba mươi ba, trời Dạ ma, trời Đỗ sử đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại. Các đại Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh, có thể thấy tất cả trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm. Các Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh có thể thấy tất cả trời Quang, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh. Các Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh, có thể thấy tất cả trời Tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh. Các Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh, có thể thấy tất cả trời Quảng, trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả. Các đại Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh, có thể thấy tất cả trời Vô tưởng hữu tình. Các đại Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh, có thể thấy tất cả trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh(7).

Này Xá lợi Tử! Có cái mà đại Bồ Tát chứng thiên nhãn đã thấy, nhưng tất cả chúng trời Tứ đại thiên vương, cho đến trời Sắc cứu cánh, dù đã đắc thiên nhãn, vẫn chẳng thể thấy được, cũng chẳng biết được.

Các đại Bồ Tát đắc thiên nhãn thanh tịnh, có thể thấy, cũng như thật biết, các loại hữu tình chết đây, sinh kia, trong vô số thế giới ở mười phương

Xá lợi Tử lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát đắc tuệ nhãn thanh tịnh?

Phật bảo:

- Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát đắc tuệ nhãn thanh tịnh, chẳng thấy có pháp hữu vi, hoặc vô vi; chẳng thấy có pháp hữu lậu, hoặc vô lậu; chẳng thấy có pháp thế gian, hoặc xuất thế gian; chẳng thấy có pháp hữu tội, hoặc vô tội; chẳng thấy có pháp tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh; chẳng thấy có pháp hữu sắc, hoặc vô sắc; chẳng thấy có pháp hữu đối, hoặc vô đối; chẳng thấy có pháp quá khứ, vị lai, hoặc hiện tại; chẳng thấy có pháp trói buộc trong cõi Dục, trong cõi Sắc, Vô sắc; chẳng thấy có pháp thiện, chẳng thiện, hoặc vô ký; chẳng thấy có pháp kiến sở đoạn, tu sở đoạn, hoặc phi sở đoạn; chẳng thấy có pháp học, vô học, hoặc phi học phi vô học, cho đến tất cả pháp tự tánh, hoặc sai biệt, đều chẳng thấy.

Này Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát này đắc tuệ nhãn thanh tịnh, đối với tất cả pháp, chẳng phải thấy, chẳng phải chẳng thấy, chẳng phải nghe, chẳng phải chẳng nghe; chẳng phải biết, chẳng phải chẳng biết; chẳng phải hiểu rõ, chẳng phải chẳng hiểu rõ.

Xá lợi Tử lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh?

Phật Bảo:

- Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh, có thể biết như thật về các loại Bổ đặc già la(8) sai khác, gọi là biết như thật. Đây là tùy tín hành, đây là tùy pháp hành, đây là vô tướng hành; đây là trụ không, đây là trụ vô tướng, đây là trụ vô nguyện. Lại biết như thật: Đây là do pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện khởi năm căn; do năm căn khởi định vô gián; do định vô gián khởi giải thoát tri kiến; do giải thoát tri kiến vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết, đắc quả Dự lưu; lại do mới đắc tu đạo, làm mỏng tham sân cõi Dục, đắc quả Nhất lai; lại do thượng phẩm tu đạo, diệt hết tham sân cõi Dục, đắc quả Bất hoàn; lại do tăng thượng tu đạo, diệt hết 5 kiết thuận thượng phần, đắc quả A la hán.

Xá lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh.

Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh, có thể biết như thật: Đây là một loại Bổ đặc già la; do pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện khởi năm căn; do năm căn khởi định vô gián; do định vô gián khởi giải thoát tri kiến; do giải thoát tri kiến, có thể biết như thật: Các pháp do sự tập hợp mà có, đều là pháp hoại diệt. Vì do biết như vậy, đắc năm căn thù thắng, đoạn trừ các phiền não, lần lượt chứng đắc quả vị Độc giác.

Xá lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh.

Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh, có thể biết như thật: Đại Bồ Tát này, mới vừa phát tâm tu hành bố thí; tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, thành tựu tín căn, tinh tấn căn và phương tiện thiện xảo, nên mới suy nghĩ việc thọ thân, để tăng trưởng thiện pháp. Vị đại Bồ Tát này, hoặc sanh vào dòng dõi lớn Sát đế lợi, hoặc sanh vào dòng Bà la môn, hoặc Trưởng giả, hoặc Cư sĩ; hoặc sanh vào các trời trong cõi Tứ đại thiên vương, hoặc sanh vào cõi trời Ba mươi ba, hoặc sanh vào cõi trời Dạ ma, hoặc sanh vào cõi trời Đỗ sử đa, hoặc sanh vào cõi trời Lạc biến hóa, hoặc sanh vào cõi trời Tha hóa tự tại; ở các nơi này, thành thục hữu tình, tùy theo tâm ưa thích của các hữu tình, có thể ban cho các loại đồ dùng hảo hạng theo ý thích, cũng có thể nghiêm tịnh các cõi Phật, cũng dùng các thứ đồ dùng hảo hạng cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn; không đọa xuống các bậc Thanh văn, Độc giác; cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, trọn chẳng thối chuyển.

Xá lợi Tử! Như vậy là Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh.

Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát đắc pháp nhãn thanh tịnh, có thể thấy biết như thật: Đại Bồ Tát này, đối với quả vị Giác ngộ tối cao, đã được thọ ký, đại Bồ Tát này, đối với quả vị Giác ngộ tối cao, đang được thọ ký, hay sẽ được thọ ký; đại Bồ Tát này, đối với quả vị Giác ngộ tối cao, được Bất thối chuyển hay sẽ bị thối chuyển; đại Bồ Tát này, đã trụ bậc Bất thối chuyển hay chưa trụ bậc Bất thối chuyển; đại Bồ Tát này, thần thông đã được viên mãn; đại Bồ Tát này, thần thông chưa được viên mãn; đại Bồ Tát này, vì thần thông đã được viên mãn, nên có thể đến vô số thế giới chư Phật ở mười phương, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đại Bồ Tát; đại Bồ Tát này, vì thần thông chưa được viên mãn, nên chẳng có thể; đại Bồ Tát này, đã được Vô sanh pháp nhẫn; đại Bồ Tát này, chưa được Vô sanh pháp nhẫn; đại Bồ Tát này, đã được căn thù thắng; đại Bồ Tát này, chưa được căn thù thắng; đại Bồ Tát này, đã nghiêm tịnh cõi Phật; đại Bồ Tát này, chưa nghiêm tịnh cõi Phật; đại Bồ Tát này, đã thành thục hữu tình; đại Bồ Tát này chưa thành thục hữu tình; đại Bồ Tát này, đã được đại nguyện; đại Bồ Tát này chưa được đại nguyện; đại Bồ Tát này, đã được chư Phật cùng khen ngợi; đại Bồ Tát này chưa được chư Phật cùng khen ngợi; đại Bồ Tát này, đã thân cận chư Phật; đại Bồ Tát này, chưa thân cận chư Phật; đại Bồ Tát này, thọ mạng vô lượng; đại Bồ Tát này, thọ mạng hữu lượng; đại Bồ Tát này, khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, Bí sô tăng vô lượng; đại Bồ Tát này, khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, Bí sô tăng hữu lượng; đại Bồ Tát này, khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao tột, có Bồ Tát Tăng; đại Bồ Tát này, khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, không có Bồ Tát Tăng; đại Bồ Tát này, chuyên tu hạnh lợi tha; đại Bồ Tát này, chuyên tu hạnh tự lợi; đại Bồ Tát này, có khó khăn trong việc tu hành khổ hạnh; đại Bồ Tát này, không khó khăn trong việc tu hành khổ hạnh; đại Bồ Tát này, một đời bị trói buộc; đại Bồ Tát này, nhiều đời bị trói buộc; đại Bồ Tát này, đã trụ thân sau cùng; đại Bồ Tát này, chưa trụ thân sau cùng; đại Bồ Tát này, đã ngồi tòa Bồ đề nhiệm mầu; đại Bồ Tát này, chưa ngồi tòa Bồ đề nhiệm mầu; đại Bồ Tát này, không có ma đến quấy nhiễu; đại Bồ Tát này, có ma đến quấy nhiễu.

Xá lợi Tử lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát đắc Phật nhãn thanh tịnh?

Phật Bảo:

- Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát, tâm Bồ đề không gián đoạn, vào định Kim cương dụ, đắc Nhất thiết tướng trí, thành tựu mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, vô lượng, vô biên công đức thù thắng, chẳng thể nghĩ bàn. Lúc ấy, thành tựu Phật nhãn giải thoát, không chướng, không ngại. Các đại Bồ Tát, do đắc Phật nhãn thanh tịnh như vậy, vượt qua cảnh giới trí tuệ của tất cả Thanh văn, Độc giác, không gì chẳng thấy, không gì chẳng nghe, không gì chẳng biết, không gì chẳng hiểu rõ; đối với tất cả pháp, thấy tất cả tướng.

Xá lợi Tử! Như vậy là đại Bồ Tát đắc Phật nhãn thanh tịnh.

Các đại Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, thì phải đắc Phật nhãn thanh tịnh.

Này Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát muốn đắc năm nhãn thanh tịnh, nên siêng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã. Vì sao? Vì sáu phép Ba la mật như vậy, gồm thâu tất cả thiện pháp thanh tịnh, đó là thiện pháp của Thanh văn, thiện pháp của Độc giác, của Bồ Tát, của Như Lai. Nếu hỏi thẳng: Pháp nào có thể gồm thâu tất cả thiện pháp, thì nên đáp ngay: Đó là Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm là mẹ sanh, mẹ dưỡng của tất cả thiện pháp, có thể sanh ra và nuôi dưỡng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã và năm nhãn v.v… vô lượng vô biên công đức thù thắng, chẳng thể nghĩ bàn.

Này Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát muốn đắc năm nhãn thanh tịnh như vậy, thì nên học Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát muốn đắc quả vị Giác ngộ tối cao, thì nên học năm nhãn thanh tịnh như vậy. Nếu đại Bồ Tát luôn luôn học năm nhãn thanh tịnh như vậy, thì nhất định chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.

Có đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, có thể dẫn phát sáu thần thông Ba la mật(9).

Những gì là sáu? Một là Thần cảnh trí chứng thông, hai là Thiên nhĩ trí chứng thông, ba là Tha tâm trí chứng thông, bốn là Túc trụ tùy niệm trí chứng thông, năm là Thiên nhãn trí chứng thông và sáu là Lậu tận trí chứng thông Ba la mật.

1- Xá Lợi Tử thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, dẫn phát Thần cảnh trí chứng thông (thần túc thông) Ba la mật như thế nào?

Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát có Thần cảnh trí chứng thông, khởi vô lượng các đại thần biến, nghĩa là biến một làm nhiều, biến nhiều thành một. Hoặc biến hiện mau chóng vô ngại. “Thăng thiên độn thổ” vô ngại, như vọt lên không trung qua lại in như chim bay, ra vào trong đất như lặn trồi trong nước, đi trên mặt nước như đi trên đất v.v... Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này tuy đủ Thần cảnh trí như thế, nhưng đối với các thần thông ấy chẳng tự cao cử, chẳng chấp trước. Trước hay chẳng trước đều không chấp. Vì sao? Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này vì đạt được tất cả pháp tự tánh không vậy, tự tánh lìa vậy và tự tánh bản lai bất khả đắc vậy. Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này chẳng nghĩ: Ta năng dẫn phát Thần cảnh trí chứng thông không phải để tự vui chơi hay làm vui kẻ khác, ta dẫn phát thần thông này chỉ vì Nhất thiết trí trí.

2- Xá Lợi Tử lại thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, dẫn phát Thiên nhĩ trí chứng thông(thiên nhĩ thông) Ba la mật như thế nào?

Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát có Thiên nhĩ trí chứng thông rất thanh tịnh hơn thiên nhĩ người, có thể nghe các thứ tiếng của loại tình hay phi tình trong mười phương cõi hằng hà sa, nghĩa là có thể nghe tiếng tất cả địa ngục, tiếng bàng sanh, quỷ giới, người, trời, tiếng Thanh văn, tiếng Độc giác, Bồ Tát, tiếng Như Lai, tiếng hủy mắng sanh tử, tiếng khen ngợi Niết bàn, tiếng vứt bỏ hữu vi, tiếng hướng đến Bồ đề, tiếng nhàm ghét hữu lậu, tiếng vui mừng vô lậu, tiếng xưng dương Tam bảo, tiếng xô đè dị đạo, tiếng luận nghị quyết chọn, tiếng phúng tụng kinh điển, tiếng khuyên dứt các ác, tiếng dạy tu các pháp lành, tiếng cứu khổ... Những tiếng như thế thảy, hoặc lớn hoặc nhỏ đều năng nghe khắp, không gì chướng ngại. Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này tuy nghe đủ các tiếng như thế, nhưng đối với thần thông ấy chẳng tự cao cử, chẳng trước tánh Thiên nhĩ trí chứng thông, chẳng trước việc Thiên nhĩ trí chứng thông, chẳng trước kẻ năng được Thiên nhĩ trí chứng thông như thế. Trước chẳng trước đều không chấp. Vì sao? Xá Lợi Tử! Bồ Tát này vì đạt được tất cả pháp tự tánh không vậy, tự tánh lìa vậy và tự tánh bản lai bất khả đắc vậy. Xá Lợi Tử! Bồ Tát này chẳng nghĩ: Ta nay dẫn phát Thiên nhĩ trí chứng thông không phải để tự vui chơi hay làm vui kẻ khác, ta dẫn phát thần thông này chỉ vì muốn hoàn thành Nhất thiết trí trí.

3- Xá Lợi Tử lại thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, dẫn phát được Tha tâm trí chứng thông (tha tâm thông) như thế nào?

Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát có Tha tâm trí chứng thông, năng như thật biết pháp tâm, tâm sở của các loại hữu tình trong mười phương cõi hằng hà sa, nghĩa là khắp biết loại hữu tình hoặc có tâm tham hoặc lìa tham, hoặc có tâm sân hoặc lìa sân, hoặc có tâm si, hoặc lìa si, hoặc có ái thủ hoặc lìa ái thủ, hoặc có tụ tâm hoặc có tán tâm, hoặc có tiểu tâm hoặc có đại tâm, hoặc có tĩnh tâm hoặc có loạn tâm, hoặc tâm hữu lậu hoặc tâm cô lậu... Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này tuy đủ loại Tha tâm trí như thế, nhưng chẳng tự cao cử, chẳng trước tánh Tha tâm trí chứng thông, như các đại Bồ Tát đã nói ở trên.

4- Xá Lợi Tử lại thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, dẫn phát Túc trụ tùy niệm trí chứng thông (túc mệnh thông) Ba la mật như thế nào?

Phật bảo Xá Lợi Tử rằng: Xá Lợi Tử! Đai Bồ Tát có Túc trụ tùy niệm trí chứng thông, năng như thật biết các việc đời trước của tất cả hữu tình trong mười phương cõi hằng hà sa, nghĩa là tùy nhớ các việc đời trước, hoặc mình hoặc người, trăm tâm, ngàn tâm... Hoặc lại có thể nhớ các việc đời trước trăm ngày, ngàn ngày, nhiều tháng nhiều năm... Hoặc lại tùy nhớ các việc đời trước trăm năm ngàn năm... Hoặc lại có thể nhớ các việc đời trước một kiếp mười kiếp, trăm kiếp ngàn kiếp hay vô lượng kiếp. Hoặc lại có thể nhớ thời trước có danh có họ như vậy, ở phương xứ nào, vui khổ ra sao, từ chỗ kia chết sanh tại đây, từ chỗ đây chết sanh nơi kia. Tướng mạo như vậy, nói năng như vậy, đi đứng nằm ngồi... các việc đời trước đều có thể nhớ hết.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này tuy đủ thần trí chứng thông như thế, nhưng trong ấy chẳng tự cao, chẳng trước như các đại Bồ Tát đã nói ở trên.

5- Xá Lợi Tử lại thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, dẫn phát Thiên nhãn trí chứng thông (thiên nhãn thông) Ba la mật như thế nào?

Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Xá Lợ Tử! Đại Bồ Tát có Thiên nhãn trí chứng thông rất tối thắng thanh tịnh hơn người. Có khả năng như thật thấy rõ các thứ sắc tượng của các loại tình và phi tình trong mười phương cõi hằng hà sa, nghĩa là khắp thấy các loại hữu tình, lúc sanh lúc chết, diệu sắc thô sắc, hoặc hơn hoặc kém, thiện thú ác thú, nhiều thứ sắc tượng các loại như thế thảy. Nhân đây lại biết các loại hữu tình tùy nghiệp lực dụng thọ sanh sai khác: Hữu tình như vậy thành tựu thân diệu hạnh, thành tựu ngữ diệu hạnh, thành tựu ý diệu hạnh, nên được tán tụng là Hiền Thánh. Vì nhân duyên chánh kiến như thế nên thân hoại mạng chung sẽ hoặc sanh lên trời, hoặc sanh trong người hưởng các phước đức diệu lạc. Còn hữu tình có thân ác, ngữ ác, ý ác, lại thêm tà kiến nên thân hoại mạng chung phải đọa ác thú, hoặc sanh địa ngục, hoặc sanh bàng sanh, hoặc sanh quỷ giới, hoặc sanh chốn biên địa phải chịu các khổ dữ dội. Thiên nhãn trí chứng thông đều có thể thấy biết từng loại hữu tình như thế, cũng thấy biết cả nghiệp báo sai khác nữa. Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này tuy biết thiên nhãn như thế, nhưng trong ấy chẳng tự cao cử, chẳng trước như các đại Bồ Tát đã nói ở trên.

6- Xá Lợi Tử lại thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, dẫn phát Lậu tận trí chứng thông (lậu tận thông) Ba la mật như thế nào?

Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát có Lậu tận trí chứng thông, năng như thật biết tất cả hữu tình trong mười phương cõi hằng hà sa, hoặc mình hoặc người, lậu hết chẳng hết. Nếu Bồ Tát đã có trí chứng thông này thì có thể biết ai là người bị đọa, ai là người được chứng Thánh.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này tuy có đủ lậu tận như thế, nhưng đối với thần thông ấy chẳng tự cao cử, chẳng trước tánh Lậu tận trí chứng thông, chẳng trước việc Lậu tận trí chứng thông, chẳng trước kẻ năng được Lậu tận trí chứng thông như thế. Trước chẳng trước đều không chấp. Vì sao? Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này vì đạt được tất cả pháp tự tánh không vậy, tự tánh lìa vậy và tự tánh bản lai bất khả đắc vậy. Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này chẳng nghĩ: Ta nay dẫn phát được Lậu tận trí chứng thông không phải để vui chơi hay làm vui kẻ khác, ta dẫn pháp thần thông này chỉ vì Nhất thiết trí trí.

Xá Lợi Tử! Đấy là đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, dẫn phát được Lậu tận trí chứng thông Ba la mật.

Xá lợi Tử! Như vậy, các đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, có thể viên mãn thanh tịnh sáu thần thông Ba la mật. Do sáu thần thông này viên mãn thanh tịnh, nên liền được viên mãn Nhất thiết trí và Nhất thiết tướng trí.

1- Lại nữa, có đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, an trụ bố thí, nghiêm tịnh Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí đạo(10). Do rốt ráo không, nên chẳng khởi tâm huệ thí, tâm xan tham.

2- Lại nữa, có đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, an trụ tịnh giới, nghiêm tịnh Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí đạo. Do rốt ráo không, nên chẳng khởi tâm trì giới, tâm phạm giới.

3- Lại nữa, có đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, an trụ an nhẫn, nghiêm tịnh Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí đạo. Do rốt ráo không, nên chẳng khởi tâm từ bi, tâm sân nhuế.

4- Lại nữa, có đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, an trụ tinh tấn, nghiêm tịnh Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí đạo. Do rốt ráo không, nên chẳng khởi tâm siêng năng, tâm lười biếng.

5- Lại nữa, có đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, an trụ tịnh lự, nghiêm tịnh Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí đạo. Do rốt ráo không, nên chẳng khởi tâm tịch tịnh, tâm tán loạn.

6- Lại nữa, có đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, trở lại an trụ Bát Nhã, nghiêm tịnh Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí đạo. Do rốt ráo không, nên chẳng khởi tâm trí tuệ, tâm ngu si.

Lại nữa, này Xá lợi Tử! Có đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, nghiêm tịnh Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí đạo. Do rốt ráo không, nên chẳng khởi tâm huệ thí, xan tham, trì giới, phạm giới, từ bi, sân nhuế, siêng năng, lười biếng, tịch tịnh, tán loạn, trí tuệ, ngu si.

Như vậy, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, an trụ sáu món Ba la mật để nghiêm tịnh Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí đạo. Do rốt ráo không, không bố thí, không xan tham, chỉ giả thi thiết vậy. Không tịnh giới, không phạm giới, chỉ giả thi thiết vậy. Không an nhẫn, không giận hờn, chỉ giả thi thiết vậy. Không tinh tiến, không lười biếng, không tĩnh lự, không tán loạn, không trí tuệ, không ngu si, chỉ giả thi thiết vậy thôi. Cho nên đại Bồ Tát này chẳng trước đã độ, hay không độ, chẳng trước bố thí, chẳng trước xan tham. Chẳng trước tịnh giới, chẳng trước phạm giới, chẳng trước an nhẫn, chẳng trước giận hờn, chẳng trước tinh tiến, chẳng trước lười biếng, chẳng trước tĩnh lự, chẳng trước tán loạn. Chẳng trước trí tuệ, chẳng trước ngu si.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này lúc bấy giờ, với trước chẳng trước, cũng chẳng chấp. Vì sao? Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này vì đã được tất cả pháp rốt ráo không vậy.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này lúc bấy giờ, chẳng trước hủy mạn, chẳng trước tán thán. Chẳng trước tổn hại, chẳng trước nhiêu ích. Chẳng trước khinh dễ, chẳng trước cung kính. Vì sao? Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này vì đạt được tất cả pháp rốt ráo chẳng sanh. Trong pháp không sanh, không có pháp hủy mạn tán thán, không có pháp tổn hại nhiêu ích, không có pháp khinh dễ cung kính vậy.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này lúc bấy giờ, chẳng trước kẻ hủy mạ, chẳng trước kẻ tán thán. Chẳng trước kẻ tổn hại, chẳng trước kẻ nhiêu ích. Chẳng trước kẻ khinh dễ, chẳng trước kẻ cung kính. Vì sao? Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này vì đạt được tất cả pháp đều là bản tánh không. Trong bản tánh không, vì không có kẻ hủy mạn tán thán, không có kẻ tổn hại nhiêu ích, không có kẻ khinh dễ cung kính vậy.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này lúc bấy giờ, với trước chẳng trước cũng không chấp trước. Vì sao? Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này tu hành Bát nhã Ba la mật, vì đã dứt hẳn tất cả trước và chẳng trước vậy.

Như vậy, Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật. Đã được công đức rất thượng rất diệu bất khả tư nghì. Tất cả Thanh văn và Độc giác đều không thể có được. Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát đây đã viên mãn công đức như thế rồi, lại đem thù thắng bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự mà thành thục các hữu tình. Lại đem đại nguyện kiên cố, dũng mãnh tinh tiến mà nghiêm tịnh cõi Phật. Do đấy mà mau chứng sở cầu là Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đối tất cả hữu tình hoặc kém hoặc hơn, hoặc tốt hoặc xấu, khởi tâm bình đẳng. Đại Bồ Tát này với tất cả hữu tình, khởi tâm bình đẳng rồi, lại khởi tâm lợi ích an vui. Đại Bồ Tát này đối với tất cả hữu tình đã khởi tâm lợi ích an vui, thời đối tất cả pháp tánh đều được bình đẳng. Đại Bồ Tát này với tất cả pháp tánh đã được bình đẳng, mới khắp năng an lập tất cả hữu tình trong pháp bình đẳng mà đem lại lợi ích lớn. Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này do nhờ nhân duyên đây, trong hiện pháp được mười phương thế giới, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đồng hộ niệm, cũng được mười phương tất cả chúng Bồ Tát đồng khen ngợi, cũng được tất cả Thanh văn, Độc giác và kẻ tu phạm hạnh chung cùng kính mến và cũng được tất cả thế gian trời, người, A tu la thảy đều cúng dường cung kính, tôn trọng tán thán.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này do nhờ nhân duyên đây, nên tùy sanh chỗ nào, mắt thường chẳng thấy sắc xấu, tai thường chẳng nghe tiếng đục, mũi thường chẳng ngửi mùi hôi, lưỡi thường chẳng nếm vị đắng, thân thường chẳng giác xúc nhớp nhúa và ý thường chẳng lấy pháp thô bỉ. Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này do nhờ nhân duyên đây, nên công đức đã tích lũy càng lớn thêm, cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề thường không quay lui.

Chính lúc Đức Phật đang thuyết thù thắng công đức của thậm thâm Bát nhã Ba la mật này, vô lượng chúng Đại Bí sô trong hội từ tòa đứng dậy, đều cầm các y phục tinh khiết phụng hiến lên Thế Tôn. Phụng hiến xong đều phát tâm A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền phát mỉm cười, từ nơi diện môn phóng ra các thứ sắc quang. Lúc đó, A Nan Đà(11) tức từ tòa đứng dậy, y phủ khắp vai tả, gối hữu chấm sát đất, chắp tay cung kính bạch Thế Tôn rằng: Do nhân gì duyên gì mà Thế Tôn mỉm cười. Các Đức Phật mỉm cười không phải chẳng có duyên do. Cúi xin Thế Tôn thương xót vì nói cho!

Khi ấy, Phật liền bảo A Nan Đà rằng: Tại tòa này đứng dậy, vô lượng Bí sô từ đây về sau sáu mươi mốt kiếp, trong thời kiếp Tinh Dụ sẽ được làm Phật, đều đồng một hiệu là Đại Tràng Tướng Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hành Viên mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Các Bí sô này từ đây một rồi, sẽ sanh về cõi nước Phật Bất Động (hay Phật A Súc) ở phương Đông, ở chỗ Phật kia siêng tu phạm hạnh.

Lúc bấy giờ lại có sáu mươi trăm ngàn các chúng Thiên tử, nghe Phật đã thuyết công đức thắng lợi thậm thâm Bát nhã Ba la mật đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, được Đức Thế Tôn thọ ký ở trong Chánh pháp của Từ Thị Như Lai tịnh tín xuất gia, siêng tu phạm hạnh, lại được Từ Thị Như Lai sẽ trao ký, được Vô thượng Bồ đề, quay xe Chánh pháp, độ vô lượng chúng, đều khiến chứng được Niết bàn thường vui.

Bấy giờ, tất cả chúng hội trong đây nhờ thần lực Phật đều thấy mười phương mỗi ngàn cõi Phật, các Phật Thế Tôn và chúng hội kia, công đức trang nghiêm thù thắng vi diệu của các cõi Phật kia, trong khi ấy cõi Kham Nhẫn này công đức trang nghiêm chẳng thể kịp được. Lúc bấy giờ chúng hội tại đây, vô lượng trăm ngàn các loại hữu tình đều phát nguyện rằng: Xin đem các nghiệp thuần tịnh của chúng tôi đã tu, nguyện sẽ vãng sanh về các cõi Phật kia.

Thế Tôn biết tâm nguyện kia, mỉm cười lần nữa, diện môn cũng lại phóng ra các thứ sắc quang. Lúc đó A Nan Đà lại từ tòa đứng dậy, cung kính hỏi Phật nhân duyên gì lại mỉm cười. Đức Phật liền bảo A Nan Đà rằng: Ngươi nay thấy từ tòa này đứng dậy vô lượng trăm ngàn các hữu tình chăng? A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Đã thấy. Phật chậm rãi bảo A Nan rằng: Các hữu tình này từ đây cho đến khi chết, tùy theo nguyện lực đều được vãng sanh các cõi Phật kia. Ở chỗ các Phật đó tu hạnh Bồ Tát cho đến Vô lượng Chánh đẳng Bồ đề. Ở chỗ đã sanh thường chẳng lìa Phật, cúng dường cung kính, tôn trọng tán thán, ròng siêng tu tập sau pháp Ba la mật, an trụ 18 pháp không, an tụ thập nhị Chân như, tu hành 37 pháp trợ đạo. An trụ tứ đế, tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, tu hành ngũ nhãn, lục thần thông, tu hành Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí và hạnh Bồ Tát được viên mãn xong, đồng thành Phật đều có cùng một danh hiệu là Trang Nghiêm Vương Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hành Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

 

Thích nghĩa:

(1). Trời Đỗ sử Đa: Danh từ cũ là cõi trời Đâu suất. Cõi trời thứ 4 trong sáu tầng trời cõi Dục. Xem lại 25 cảnh giới hiện hữu trong phần thứ I, Tổng luận.

(2). Bất thối chuyển: Không thối tâm, không bỏ cuộc, mặc dù gặp nghịch cảnh hay sự cám dỗ của ngũ dục, lục trần. Một định nghĩa tổng hợp của ĐBN, phẩm“Tướng Bất Thối” quyển 514, Hội thứ III cho thấy sự khác biệt giữa Bồ Tát Bất thối chuyển, Bồ Tát Vô sanh pháp nhẫn và Bồ Tát Chánh tánh ly sanh như sau: Bồ Tát Bất thối chuyển dùng tự tướng không quán tất cả pháp, rồi vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh cho đến chẳng thấy chút pháp khá được. Vì chẳng khá được nên không sở tạo tác. Vì không tạo tác nên gọi rốt ráo chẳng sanh. Vì rốt ráo chẳng sanh nên gọi Vô sanh pháp nhẫn. Bởi vì được Vô sanh pháp nhẫn như thế nên gọi Bồ Tát Bất thối chuyển. Nếu Bồ Tát Ma ha tát trọn nên các hành tướng trạng như thế, biết đấy là Bồ Tát Bất thối chuyển”.

(3). Ba ác thú đạo (Phạm: Durgati, Pāli: Duggati): Cũng gọi là Ác đạo. Đối lại với Thiện thú. Thú, có nghĩa dẫn dắt, đưa đẩy đi tới chỗ nào, như nghiệp thiện ác chiêu cảm đời sau sanh đến địa ngục, ngạ quỷ, và súc sinh. Đó là ba ác đạo. Ba thiện đạo là A tu la, người, Trời.

(4). Ba đạo Bồ đề: 1- Thanh Văn Bồ Đề, 2- Bích Chi Bồ Đề, 3- Phật Bồ Đề. Hai loại đầu chỉ đoạn phiền não chướng mà thôi, còn Phật Bồ Đề thì đoạn tận phiền não và sở tri, cho nên được gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.

(5). Nhất sanh bổ xứ: Thân sau rốt trước khi lên ngôi vị Phật.

(6). Xem lại mục “Tu hành năm loại mắt”, phần thứ I Tổng luận.

(7). Tức các cõi trời Dục và Sắc giới đã giải thích rộng trong phần thiền định, nói về 25 cảnh trời sai khác (nhị thập ngũ hữu). Xem lại phần thứ I Tổng luận.

(8). Bổ đặc già la: Xem lại thích nghĩa về “Tu Hành Năm Loại Mắt” thuộc phần thứ I Tổng luận.

(9). Xem lại mục “Tu hành lục thần thông”, ghi chi tiết trong Phần thứ I Tổng luận.

(10). Nhất thiết tướng trí đạo: Nguyên tác bằng chữ Hán trong Hoavouu.com là “ nhất thiết tương/tướng trí đạo”. Chúng tôi cố gắng tìm nghĩa của 4 từ này trong nhiều từ điển Hán Việt nhưng không thấy. Theo chỗ hiểu biết của chúng tôi tam trí là: 1. Nhất thiết trí (一切智) là trí của Thanh văn, 2. Đạo chủng trí(道種智) là trí của Bồ Tát, 3. Nhất thiết tướng trí hay Nhất thiết trí trí(一切種智) là trí của chư Phật. TT. Thích trí Nghiêm dịch nguyên bản bằng chữ Hán là nhất thiết tương/tướng trí đạo”. Có lẽ, bản gốc Kinh ĐBN bằng chữ Hán muốn ám chỉ là Nhất thiết tướng trí chăng?

Để tôn trọng người dịch chúng tôi cũng ghi là “Nhất thiết tướng trí đạo”!

(11). Ngài A Nan (s, p: Ānanda): Từ gọi tắt của âm dịch A Nan Đà, ý dịch là Khánh Hỷ, Vô Nhiễm, con trai của vương tộc Sĩ Cam Lộ Phạn (s: Amṛtodana, còn gọi là Bạch Phạn Vương thuộc dòng họ Thích Ca (s: Śākya, p: Sakya), anh em với Đề Bà Đạt Đa (s, p: Devadatta), anh em chú bác với đức Phật, là thị giả hầu cận đức Phật trong một thời gian lâu dài. Ngày đức Thế Tôn thành đạo là ngày A Nan ra đời; Ngài giảng kinh xong 20 năm thì khi ấy A Nan mới xuất gia. Sau khi thành đạo, lần đầu tiên đức Thế Tôn trở về thành Ca Tỳ La Vệ (s: Kapilavastu, p: Kapilavatthu), khi Ngài trú tại Vườn Xoài (s: Āmrapāli-vana, p: Ambapāli-vana, tức Am Bà Ba Lợi Viên), Tôn giả A Nan đã cùng với các vương tử thuộc dòng họ Thích Ca và người thợ hớt tóc Ưu Ba Ly (s, p: Upāli) xin xuất gia theo Phật. Từ đó trở đi, Tôn giả thường hầu hạ bên đức Thế Tôn, phần nhiều nghe được những lời dạy của Ngài, nên được xưng tụng là Đa Văn Đệ Nhất. Có thuyết cho rằng Tôn giả đã tu đắc pháp gọi là Tánh Giác Tự Tại Tam Muội, có thể ở trong định thấu hiểu các pháp; cho nên khi kết tập Pháp Tạng thì A Nan được suy cử. Khi dưỡng mẫu của Phật là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (s: Mahāprajāpatī Gautamī, s: Mahāpajāpatī Gotamī) cầu xin xuất gia nhưng không được phép, chính Tôn giả đã đích thân xin Phật và sau khi được phép thì Tôn giả là người đã tận lực sáng lập giáo đoàn Tỳ Kheo Ni đầu tiên. Vào tháng thứ 2 sau khi Phật diệt độ, khi cuộc kết tập lần đầu tiên được tiến hành tại Hang Thất Diệp (s: Sapta-parṇa-guhā) ngoài Thành Vương Xá (s: Rājagṛha, p: Rājagaha), Tôn giả không được tham dự cùng với 499 vị đệ tử của đức Phật, vì Ngài chưa chứng quả La Hán. Do sự thúc bách của Ma Ha Ca Diếp (s: Mahākāśyapa, p: Mahākassapa), Ngài mới chứng quả A La Hán, nên được tham dự. Khi đức Phật diệt độ, tương lai của giáo đoàn được phó thác lại cho Ma Ha Ca Diếp, về sau Ca Diếp lại truyền y bát cho A Nan, trở thành vị tổ thứ 2 của Thiền Tông Tây Thiên.

 

Lược giải:

 

Tu Bồ Tát hạnh hay Bồ Tát đạo là: Trên cầu Vô thượng Bồ đề, dưới hóa độ chúng sanh. Đó cũng chính là hạnh nguyện cao cả, ẩn mật nhất của đời sống Bồ Tát, để duy trì dòng giống Phật, phục vụ chúng sanh dù trải qua muôn ngàn kiếp khổ nhọc. Vãng sanh, sanh rồi tử, tử rồi sanh, sanh đây chết kia, quay đi lộn lại bao nhiêu kiếp không hề mệt mỏi ở cõi đời đầy phiền nhiễu này với tâm nguyện là cứu độ chúng sanh, mong dẫn nước Cam lồ từ biển trí về rửa sạch ô nhiễm trần lao cho mọi người! Vãng sanh như thế chẳng qua là sự thị hiện của Bồ Tát để làm đẹp thế gian này!

Muốn tô điểm thế gian này, thì Bồ Tát phải thực hành Bát Nhã theo lời dạy của Đức Thế Tôn:

“Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát lúc thực hành Bát nhã Ba la mật an trụ trong sáu Ba la mật như vậy (chẳng sanh tâm xan lẫn, chẳng dính mắc nơi có tội cùng vô tội, chẳng sân hận, chẳng trễ lười, chẳng say sưa thiền vị, chẳng sanh tâm ngu si) để thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không, vì chẳng đến chẳng đi, vì chẳng thí chẳng thọ, vì chẳng phải giới cấm chẳng phải phạm tội, vì chẳng phải nhẫn chẳng phải sân, vì chẳng phải siêng chẳng phải lười, vì chẳng định chẳng loạn, vì chẳng trí chẳng ngu vậy. Bấy giờ đại Bồ Tát chẳng phân biệt bố thí cùng chẳng bố thí, chẳng phân biệt trì giới cùng phạm giới, chẳng phân biệt nhẫn nhục cùng sân khuể, chẳng phân biệt tinh tấn cùng giải đãi, chẳng phân biệt định tâm cùng loạn tâm, chẳng phân biệt trí tuệ cùng ngu si, chẳng phân biệt hủy hại khinh mạn cùng cung kính tôn trọng. Tại sao? Vì trong pháp vô sanh chẳng có ai lãnh thọ sự hủy hoại, không có ai lãnh thọ sự khinh mạn hay cung kính”.

Cái rỗng không đó là cái tuyệt đối, cũng gọi là đệ nhất nghĩa đế, không thí không thọ, không tội không phước, không nhẫn không sân, chẳng siêng chẳng lười, chẳng định chẳng loạn, chẳng trí tuệ chẳng ngu si… không còn nhị nguyên đối đãi, tất cả bình đẳng, thanh tịnh, siêu xuất trên mọi danh ngôn thế tục.

Nên Phật bảo:

Này Xá Lợi Phất! Lúc thực hành Bát nhã Ba la mật, ở trong tất cả chúng sanh đại Bồ Tát sanh tâm bình đẳng. Đã sanh tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sanh, Bồ Tát được pháp bình đẳng. Đã được tất cả pháp bình đẳng, Bồ Tát đặt để tất cả chúng sanh trong pháp bình đẳng đó.

Đại Bồ Tát nầy hiện đời được chư Phật mười phương thương mến, cũng được tất cả Bồ Tát, Bích Chi Phật, Thanh Văn kính mến”. (Phẩm “Vãng Sanh”, quyển thứ 02, Kinh MHBNBLMĐ).

Đây là một bài pháp dài, nói nhiều về lục Ba la mật nhất là Tánh không Bát Nhã. Tuy nhiên, thể văn viết theo lối tường thuật, dễ hiểu, giáo lý không gì khó khăn, ai cũng có thể hiểu nên không phải luận giải dài dòng. Điều cần nhớ ở đây là phải quán biết các pháp không và thâm nhập được pháp không thì không còn chấp đến thí hay thọ, tội hay phước, nhẫn hay sân, siêng hay lười, định hay loạn, trí tuệ hay ngu si… Vì trong pháp không tất cả đều rỗng không, chẳng có để bám vúi. Nên mới có cái thấy thanh tịnh. Bình đẳng cũng có nghĩa là không, là Đệ nhất nghĩa đế. Sống trong Đệ nhất nghĩa đế thì không còn thấy uế hay tịnh, tội hay phước, nhẫn hay sân, định hay loạn…

Tu Bát Nhã để có tuệ nhãn thanh tịnh. Khi có mắt tuệ thanh tịnh rồi thì đối với tất cả pháp, chẳng phải thấy, chẳng phải chẳng thấy, chẳng phải nghe, chẳng phải chẳng nghe; chẳng phải biết, chẳng phải chẳng biết; chẳng phải hiểu rõ, chẳng phải chẳng hiểu rõ. Kinh bảo: “Chẳng xuất, chẳng sanh, không được, không làm, đây gọi là rốt ráo thanh tịnh”. Phật đạo vì vậy mới được gọi là Thanh-Tịnh-Đạo. Có thanh tịnh “linh chi” mới mở.

Vì vậy, phẩm này Phật mới khuyên: “... muốn đắc năm nhãn thanh tịnh, nên siêng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì sáu phép Ba la mật như vậy, gồm thâu tất cả thiện pháp thanh tịnh, đó là thiện pháp của Thanh văn, thiện pháp của Độc giác, của Bồ Tát, của Như Lai. Nếu hỏi thẳng: Pháp nào có thể gồm thâu tất cả thiện pháp, thì nên đáp ngay: Đó là Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm là mẹ sanh, mẹ dưỡng của tất cả thiện pháp, có thể sanh ra và nuôi dưỡng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, năm nhãn v.v… và vô lượng vô biên công đức thù thắng, chẳng thể nghĩ bàn”.

Kinh khuyên rằng muốn đắc 5 nhãn thanh tịnh thì phải tu sáu pháp Ba la mật nhất là Bát Nhã. Tu tinh tấn, thiền định, Bát Nhã để được trí, tu bố thí, trì giới, an nhẫn v.v... là để được bi. Có trí và bi mới có thể qua bờ kia. Biết như vậy là tìm thấy đò mà sang sông, chỉ cần trang bị một tâm nhiệt thành và một ý chí dũng mãnh là đủ./.

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com