TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO
TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH
( Majhima Nikàya )
Tập III
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli
Chuyển thể Thơ :
Giới Lạc MAI LẠC HỒNG tự TUỆ NGHIÊM
( Huynh Trưởng Cấp Tấn - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )
Email : honglacmai1@yahoo.com
77. Đại K. SAKULUDÀYI
( Mahà Sakuludàyi sutta )
Như vậy, tôi nghe :
Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả
Trú Vương Xá – Rá-Chá-Ga-Ha (1)
Tinh Xá Vê-Lú-Va-Na (2)
Tại Ka-Lanh-Đa-Ka-Nì-Vá-Pa (3)
( Nơi đây là chỗ nuôi dưỡng sóc )
Lúc ấy, dọc trú sở không xa
Như Mô-Ra-Ní-Va-Pa, (4)
A-Nu-Gá-Rá, Va-Rà-Thá-Ra (4)
Đó chính là các nơi tu-viện
Nhiều du sĩ danh tiếng sống đây.
Đức Thế Tôn vào buổi mai
Đắp y mang bát, rồi Ngài đi qua
Khất thực tại Ra-Cha-Ga-Há
Nhưng Ngài nghĩ : “ Còn quá sớm đi !
Chưa nên khất thực hành trì.
Ta hãy đến Mô-Ra-Ni-Vá-Pà
Tìm gặp Sa-Ku-Lu-Đa-Dí
Là du sĩ hiện sống nơi ni ”.
Rồi Ngài chuyển hướng để đi
___________________________
(1) & (2) : Thành Vương-Xá – Rajagaha là thủ phủ của nước
Magadha ( Ma-Kiệt-Đà ) . Vua Bimbisara ( Bình-Sa Vương
hay Tần-Bà-Sa-La ) đã dâng cúng Đức Phật ngự viên Veluvana
để xây dựng thành Trúc Lâm Tinh Xá – Veluvanavihàra .
(3) : Kalandakanivapa ( chỗ nuôi dưỡng sóc ).
(4) : Nơi những du-sĩ ở đông : Moranivapa – Khổng Tước Lâm
(Rừng có nhiều chim công), các tu-viện : Anugara , Varadhara .
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 002
Vườn Khổng Tước ( Mô-Ra-Ni-Vá-Pà ).
Lúc ấy, Sa-Ku-Lu-Đa-Dí
Cùng đại chúng du-sĩ nơi này
Tập trung một chỗ đủ đầy
Theo như thường lệ hằng ngày xảy ra
Đang lớn tiếng để mà tranh luận
Nhiều vấn đề lôi cuốn, sa đà
Phù phiếm – cãi vả nổ ra
Câu chuyện vua chúa, hoàng gia, đại thần,
Chuyện ăn trộm, thần dân bách tính,
Chuyện binh lính, chiến trận hãi hùng
Chuyện ăn uống, chuyện kiếm cung,
Giường nằm, đồ mặc, chuyện dùng vòng hoa,
Chuyện hương liệu, chuyện bà con họ,
Chuyện xe cộ, làng xóm, thị thành,
Chuyện thị trấn, chuyện chiến tranh,
Chuyện về quốc độ, chuyện dành đàn ông,
Chuyện đàn bà, rồi dông dài mãi
Chuyện lề đường, chỗ lấy nước dùng,
Câu chuyện về vị anh hùng,
Chuyện người đã chết, chuyện vùng biên cương,
Về hiện trạng đại dương, thế giới,
Chuyện tạp thoại lui tới lòng vòng,
Chuyện về hiện hữu và không…
Các du sĩ ấy nói trong ồn ào.
Đức Thế Tôn đi vào chỗ ngụ
Sa-Ku-Lú-Đi-Dá chợt nhìn
Liền khuyến cáo Chúng của mình :
– “ Các Tôn-giả ! Hãy lặng thinh, đừng ồn !
Nay Sa-môn Gô-Ta-Ma đó
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 003
Thuộc giòng họ Sắc-Dá xuất gia
Đang đến, nhìn thấy từ xa.
Vị Tôn-giả Gô-Ta-Ma hiện thời
An trú nơi Trúc Lâm Tinh Xá.
Vị Tôn Giả ưa mến lặng im,
Thiền tịnh trong sự lặng im,
Tán thán trầm lặng và tìm tịnh an.
Nếu thấy chúng ta đang lặng lẽ
Có thể Ngài sẽ ghé thăm đây ”.
Các vị du-sĩ nghe vầy
Thảy đều im lặng đợi Ngài ghé qua.
Khi Phật Đà uy nghiêm vừa tới
U-Đa-Dí thưa với Ngài là :
– “ Bạch Thế Tôn Gô-Ta-Ma !
Lành thay ! Ngài lại ghé qua chốn này.
Đã lâu rồi mà Ngài không đến,
Nay đã đến, xin thỉnh Ngài ngồi
Vào chỗ đã soạn sẵn rồi ”.
Thế Tôn an tọa vào nơi được mời.
U-Đa-Dí thì ngồi trên ghế
Kê thấp hơn và kế một bên.
Rồi Đức Thế Tôn hỏi liền :
– “ Này U-Đa-Dí (1) ! Nhân duyên thế nào
Mà các vị họp nhau bàn luận,
Và bàn luận về vấn đề gì ?
Chuyện bị gián đoạn là chi ? ”.
– “ Bạch Ngài ! Chẳng có chuyện chi lớn mà !
___________________________
(1) :Đức Phật gọi du-sĩ Sakuludayi là Udayi , một lối gọi tắt .
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 004
Hãy gác qua một bên chuyện đó,
Lát nữa có dịp sẽ nêu ra.
Bạch Thế Tôn ! Có chuyện là
Trong những ngày trước xảy ra như vầy :
Các vị này : Sa-môn, Phạm-chí
Nhiều chi phái ngoại đạo các phương
Tập họp tại Luận-nghị-đường
Ngồi lại đối thoại như thường xảy ra.
Đề tài được xem là mục đích :
“ Thật lợi ích cho dân Âng-Ga
Cả cho dân Ma-Ga-Tha
Thật là tốt đẹp, thật là vui thay !
Hai nơi này có duyên cao quý
Được các vị lãnh đạo giáo-đoàn,
Lãnh đạo hội chúng danh vang,
Sư trưởng đồ chúng, thuộc hàng Tổ Sư
Được quần chúng xem như thần thánh,
Uy thế mạnh, danh tiếng chẳng vừa,
Đã đến an cư mùa mưa,
Vì đồ chúng họ, sớm trưa giảng truyền.
Được biết tên các vì Tôn-giả :
Pa-Ku-Tha Kách-Chá-Da-Na, *
Mạc-Kha-Lị Gô-Sa-La, *
Sanh-Cha-Da Bê-Lát-Thi-Pút-Tà, *
Ni-Ganh-Tha Na-Ta-Pút-Tá, *
______________________________
* Lục Sư ngoại đạo thời Phật :
Pùrana Kassapa ( Phú-la Ca-Diếp ) ; Makkhali Gosala ( Mạt-
gìa-lê Cù-xá-lợi ) ; Ajita Kesakambali ( A-kỳ-đa Kỳ-xá-khâm-
bà-la ) ; Pakudha Kaccàyana ( Bà-phù-đà Ca-chiên-diên ) ;
Sanjaya Belatthiputta ( Tán-nhã-di Tỳ-la-phê-phất ) và
Nigantha Nàtaputta ( Ni-kiền-tử ) .
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 005
Cùng Pu-Rá-Ná Káp-Sá-Pa, *
Và A-Chi-Ta, tức là
Tôn-giả Kê-Sá-Kam-Ba-Li * này.
Các vị đây có nhiều đồ chúng,
Được quần chúng cung kính, tôn sùng,
Kính lễ, cúng dường không cùng
Nhưng trong các vị nói chung trên này
Vị nào được có đầy đệ tử
Cùng pháp lữ cung kính, cúng dường ?
Đệ tử sau khi cúng dường,
Cung kính, tôn trọng, sống nương thế nào ?
Một số người như sau diễn tả :
‘ Vị Pu-Rá-Ná Káp-Sá-Pa
Là vị lãnh đạo tài ba
Sư trưởng đồ chúng, xứng là Tổ Sư.
Được quần chúng khư khư cung kính.
Nhưng bị chính đệ tử coi thường,
Không được kính lễ, cúng dường,
Và họ không sống tựa nương vào Thầy.
Như trước đây, khi Pu-Ra-Ná
Káp-Sá-Pá thuyết pháp một nơi
Có hội chúng hàng trăm người.
Đệ tử ông ấy nặng lời nói to :
– “ Chư Tôn-giả ! Chớ cho ổng giỏi !
Chớ có hỏi ông Pú-Rá-Na
Về các ý nghĩa sâu xa,
Ông ta không biết chi mà giảng đâu !
Chúng tôi đây hiểu sâu ý nghĩa
Hỏi chúng tôi, được chỉ dẫn ngay ”.
Lúc ấy, khóc lóc, dang tay
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 006
Pu-Rá-Na Ca-Diếp đầy bi ai,
Nói như vầy với đệ tử chống
Trong vô vọng, chẳng ai nghe mình :
– “ Chư Tôn-giả ! Hãy lặng thinh !
Hãy nhỏ tiếng. Hãy cứ tin điều này :
Các vị đây không hỏi chư vị,
Nhưng họ chỉ hỏi ở tôi đây !
Tôi sẽ trả lời họ ngay ”.
Nhiều đệ tử Ca-Diếp này bỏ đi
Ngay sau khi kích bác kịch liệt
Pu-Ra-Na Ca-Diếp – Thầy mình.
Họ nói với giọng bất bình :
– “Ông không biết Pháp & Luật minh triết này,
Ta biết Pháp & Luật đây triệt để.
Làm sao ông có thể biết rành ?
Ông theo tà hạnh đành rành,
Ta theo chánh hạnh tịnh thanh vô cùng.
Điều ta nói tương ưng vô kể,
Điều ông nói không thể tương ưng.
Chính ông đã nói tráo trưng
Điều đáng nói trước ông từng nói sau,
Điều nói sau thì ông nói trước,
Chủ trương ông lật ngược mất rồi !
Câu hỏi ông bị bác rồi !
Ông đã thuyết bại. Hãy mời giải vây !
Nếu có thể dùng ngay ý chí
Gắng thoát ra lối bí để ra ”.
Như vậy, ông Pu-Ra-Na
Káp-Sa-Pá ấy thật là đáng thương !
Bị đệ tử coi thường, chì chiết,
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 007
Mạ lỵ và mắng nhiếc, miệt khinh
Nhắm vào hành động của mình.
* Cũng có một số người đinh ninh là
Các Tôn-giả tài ba xuất chúng
Lãnh đạo các hội-chúng, giáo-đoàn,
Lãnh đạo đồ chúng, danh vang,
Sư trưởng đồ chúng, thuộc hàng Tổ Sư
Được quần-chúng xem như thần thánh
Uy thế mạnh, danh tiếng, như là :
Mạc-Kha-Lị Gô-Sa-La,
Sanh-Cha-Da Bê-Lát-Thi-Pút-Tà
Pu-Ku-Tha Kách-Cha-Da-Ná
Ni-Ganh-Thá Na-Tá-Pút-Ta…
Nhưng đã có chuyện xảy ra
Với Ni-Ganh-Thá Na-Ta-Pút-Tà
Đang thuyết pháp ba hoa như vậy
Cho hội-chúng cả mấy trăm người.
Có đệ tử ông tức thời
Đứng lên kích bác nặng lời với ông,
Khinh miệt ông, nói lời mắng nhiếc,
Mạ lỵ về những việc của Thầy.
Na-Ta-Pút-Tá dang tay
Khóc lóc cải chính, chẳng ai nghe lời.
* Một số người thẳng ngay tuyên bố :
“ Một vị có uy tín, tài ba
Là Sa-môn Gô-Ta-Ma
Lãnh đạo hội-chúng thật là vang danh,
Bậc Sư trưởng thiện lành, nghiêm tịnh,
Được quần chúng cung kính, ngưỡng tôn,
Được các đệ tử Sa-môn &
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 008
Đệ tử áo trắng rất tôn trọng Ngài.
Thường cúng dường, trước Ngài kính lễ,
Nương tựa để tu học với Thầy.
Con nhớ một thuở trước đây
Đại Sa-môn giảng cho vài ba trăm.
Cả thính chúng chú tâm nghe kỹ
Bỗng một vị đệ tử bật ho
Tuy thành tiếng nhưng không to.
Vị đồng-phạm-hạnh nhắc, do ngồi kề
Dùng đầu gối hích về vị đó
Và nói nhỏ : ‘Hiền-giả lặng yên !
Chớ có gây ồn, làm phiền
Thế Tôn là bậc thâm uyên, trọn lành,
Đang thuyết pháp, cần thanh tịnh đấy !’.
Trong khi ấy, Ngài Gô-Ta-Ma
Thuyết pháp, đại chúng hằng hà
Không một tiếng động xảy ra nơi này.
Không có ngay một tiếng đằng hắng,
Không tiếng ho. Im lặng hoàn toàn,
Từng nhóm đại-thính-chúng đang
Nhiệt tình kỳ vọng, hân hoan nghĩ rằng :
‘Thế Tôn thuyết pháp hằng cặn kẽ
Cho chúng ta, ta sẽ nghe tường’.
Ví như tại ngã tư đường
Một người bóp vắt bánh đường mật ong,
Và đại chúng sống trong mong ngóng
Trong nhiệt tình kỳ vọng bồn chồn.
Cũng vậy, trong khi Sa-Môn
Gô-Ta-Ma giảng pháp tôn quý nào
Cho hội chúng không sao đếm tận
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 009
Không một tiếng đằng hắng, ho nào.
Vài đệ tử tánh sân mau
Với đồng-phạm-hạnh cãi nhau, bất hòa,
Bỏ đời sống xuất gia, hoàn tục,
Nhưng họ vẫn tiếp tục tán dương
Tôn kính bậc Thầy Pháp Vương,
Tán thán Pháp Bảo, tán dương Tăng-Già,
Tự trách ta, không trách người khác :
‘Chính chúng ta phận bạc như vôi !
Thật bất hạnh, thiếu phước rồi !
Đã được nhập chúng sống đời xuất gia
Trong Pháp và Luật nghiêm căn bản
Được khéo giảng khúc chiết, rõ bày,
Mà không thể sống lâu dài
Theo Phạm-hạnh tu học vầy chẳng lơi,
Sống an lành trọn đời như vậy,
Nay giữ lấy ngũ giới tại gia ”.
Như vậy, Ngài Gô-Ta-Ma
Được các đệ tử rất là kính tôn,
Kính lễ luôn, thành tâm cung dưỡng
Nương tựa bậc Sư Trưởng Thích Ca ”.
– “ U-Đa-Dí ! Ông thấy qua
Có bao nhiêu pháp nơi Ta có rồi
Mà từ nơi pháp này căn cứ
Các đệ tử cung kính, tán dương,
Tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường,
Sau đó, họ đã tựa nương Ta hoài ? ”.
– “ Bạch Thế Tôn ! Trong ngoài hiểu khắp
Nơi Thế Tôn, năm pháp thực hành
Do nơi năm pháp tốt lành
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 010
Mà các đệ tử nhiệt thành kính tôn,
Sống nương tựa Thế Tôn, cung kính.
Năm pháp chính như vậy là gì ?
– Thế Tôn ăn ít, thường khi
Tán thán hạnh ăn ít, vì nghiêm thân,
Pháp thứ nhất hạnh ăn ít đó.
– Hạnh thứ hai Ngài có thực thi :
Biết đủ với các loại y,
Tán thán tri túc với y loại nào.
– Món ăn nào khất thực thọ dụng
Thế Tôn cũng tri túc, đủ dùng.
– Bất cứ sàng tọa nói chung
Ngài cũng biết đủ, ung dung chẳng nề.
– Thứ năm, về viễn ly hạnh mãn
Ngài sống và tán thán hạnh này.
Đệ tử do năm pháp đây
Cung kính, tôn trọng, thường hay cúng dường.
Sau khi đã cúng dường, kính lễ,
Họ triệt để nương tựa nơi Ngài ”.
– “ U-Đa-Dí ! Nếu như vầy
Đệ tử cung kính Như Lai chỉ vì
* Ta ăn ít, hạnh tri-túc-thực
Nhưng định mức đệ tử của Ta
Chỉ ăn một bát – Kô-sa, ( kosa )
Chỉ ăn nửa bát, hay là chấp nê
Chỉ ăn một trái Vê-Lu-Vá ( veluva )
Ăn nửa Vê-Lu-Vá trái ni.
Còn Ta có khi ngọ thì
Ăn một bình bát, có khi hơn nhiều.
Nếu vì điều ăn ít như thế
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 011
Thời đáng lẽ đệ tử Như Lai
Không cung kính, tôn trọng Thầy,
Cũng không cung dưỡng, lâu dài dựa nương.
* Còn Như Lai thường thường biết đủ
Với bất cứ loại y mặc nào,
Tán thán biết đủ thanh cao
Nếu chỉ vì vậy mà bao nhiêu người
Đệ tử Ta thời thời cung kính,
Luôn tôn trọng, lễ kính, cúng dường.
Khi nhiều đệ tử chủ trương
Mặc y phấn tảo họ thường làm ra.
Từng mảnh vải tha ma, đống rác,
Họ lượm, giặt, kết lại thành y
Tăng-già-lê – Săng-Ga-Ti (1)
Hoặc Út-Tá-Rá…(1) mọi thì che thân.
Còn Ta, y được dâng cúng bởi
Các tín thí mang tới cúng dàng,
Các chỗ sờn mỏng được đan
Bện lại với dây tơ càng chắc hơn.
Nói Sa-môn Kiều Đàm mọi lúc
Sống tri túc với bất cứ y,
Tán thán hạnh biết đủ y,
Này U-Đa-Dí ! Nếu vì hạnh ni
Với bất cứ loại y nào đó
Hạnh luôn có biết đủ ở trong,
_____________________________
(1) : Một vị Tỷ Kheo (Tỳ-Khưu -Bhikkhu ) đã thọ Cụ-Túc-Giới (Đại
Giới) luôn luôn mang theo mình Bình Bát và Tam Y : Y An-Đà-Hội
(Antarvàsa –Y mặc như quần ); Y Uất-Đà-La-Tăng (Uttara sangha –Y vai trái ); Y Tăng-Già-Lê – Sanghàti ( Y may từ 2 đến 7 lớp- có
thể dùng để đắp .Y này chỉ hàng Tỷ Kheo mới có, khi hành Tăng Sự
thì bắt buộc phải đắp lên vai trái, bên ngoài Y Uất-đà-la-tăng ). .
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 012
Mà đệ tử Ta một lòng
Cung kính, tôn trọng – là không đúng rồi !
Vì chính họ tìm nơi đống rác,
Nơi tiệm phố hay các tha ma
Lượm gom, giặt sạch, may ra
Thành y phấn tảo, mặc qua mọi thời.
* Còn như lời ông vể điểm khác
Ta biết đủ với các món ăn
Khất thực từ các nhà dân,
Tán thán hạnh đó. Và nhân hạnh này
Đệ tử Ta lòng đầy cung kính,
Cúng dường Ta và kính lễ Ta,
Rồi sống nương tựa nơi Ta,
Điều đó không đúng như là ý ông.
Vì ở trong những người đệ tử
Có một số đã tự nguyện rằng :
Chỉ đi khất thực nuôi thân,
Không nhận tín thí Trai Tăng cúng dường.
Thỏa mãn với món thường mảy mún,
( Dù chỉ là chút bún, chút canh )
Còn Ta, thiện tín chí thành
Cúng dường thực phẩm ngon lành vị, hương,
Thỉnh đến nhà dâng các loại cháo,
Cơm từ gạo lựa bỏ hạt hư,
Các loại trợ vị, canh nhừ…
Nếu nói Ta ‘biết đủ’ như hạnh mà
Đệ tử Ta nguyện chỉ khất thực,
Và thọ thực từ món ăn này,
Đáng lẽ đệ tử Như Lai
Không hề cung kính, lễ hay cúng dường
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 013
Đến Như Lai ; không nương tựa nữa.
* Còn hằng bữa Ta sống tĩnh tâm
‘Biết đủ’ với chỗ ngồi, nằm,
Bất cứ sàng tọa nào nhằm chuyện đây
Đều ‘biết đủ’. Hạnh này tán thán.
U-Đa-Dí ! Về khoản kể này
Có những đệ tử Như Lai
Nguyện suốt đời : sống ở ngoài trời thôi !
Dưới gốc cây tứ thời tự tại
Nguyện không sống dưới mái che nào !
Suốt trong tám tháng dãi dầu.
( Chỉ trừ các tháng thuộc vào An cư ).
Còn với Như Lai thì thỉnh thoảng
Ta thuyết giảng, sống ở ngôi lầu
Có nóc nhọn, nhà thì cao
Tô vôi, tường chắn gió vào, cài then,
Có thắp đèn, cửa sổ khép kín.
Nếu đệ tử cung kính Như Lai
Vì sàng tọa ‘biết đủ’ này,
Thì là không đúng điều đây chút nào !
Mà đáng lẽ họ đâu kính lễ,
Tôn trọng để nương tựa vào Ta.
* Bảo Sa-môn Gô-Ta-Ma
Sống viễn ly, khen ‘rời xa’ hạnh này,
Các đệ tử Như Lai cung kính,
Nương tựa Ta do chính hạnh này,
Thời cũng không đúng như vầy,
Vì nhiều đệ tử vào ngay núi rừng
Nơi điểm dừng vùng sâu, xa vắng.
Mỗi nửa tháng mới gặp Chúng Tăng
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 014
Để tụng Giới bổn, sửa thân.
Còn Ta, nhiều đệ tử hằng đi theo
Các Tỷ Kheo, Tỷ Kheo Ni chúng,
Cư Sĩ chúng, cả nữ & nam nhân,
Quốc vương, Trưởng giả, Đại thần,
Ngoại đạo, đệ tử cận thân vị này,
Vây quanh Ta hằng ngày như thế,
Thì đáng lẽ các đệ tử Ta
Không cung kính, tôn trọng Ta,
Không sống nương tựa vào Ta trọn đời.
Như vậy thời, này U-Đa-Dí !
Không phải chỉ vì năm pháp này
Mà đệ tử trọng Như Lai,
Cung kính, đảnh lễ, thường hay cúng dường,
Sống tựa nương vào Ta an lạc.
Nhưng có năm pháp khác cao minh
Các đệ tử Ta giữ gìn,
Cung kính, tôn trọng, nhiệt tình cúng dâng.
I.- Giới hạnh tăng thượng :
Thế nào là năm phần pháp ấy ?
U-Đa-Dí ! Ông thấy thường là
Các hàng đệ tử của Ta
* Thán phục Tăng-thượng-giới Ta tịnh hòa :
‘Sa-môn Gô-Ta-Ma là vị
Có giới hạnh cao quý, tựu thành
Giới uẩn tối thượng, tịnh thanh’ .
Này U-Đa-Dí ! Thực hành nghiêm minh,
Tăng-thượng-giới tự mình tuân thủ,
Nên đệ tử thán phục, kính tôn,
Đảnh lễ, cúng dường – và còn
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 015
Nương tựa Ta mãi, không sờn niềm tin.
Pháp thứ nhất thực tình cao quý.
II.- Tri kiến vi diệu :
U-Đa-Dí ! Còn pháp thứ hai :
* Đệ tử kính phục Như Lai
‘Tri kiến vi diệu’ có ngay thường hằng.
Khi Như Lai nói rằng : ‘Ta biết’,
Nghĩa là Ta có biết sâu xa.
Khi nói : ‘Ta thấy’, nghĩa là
Như Lai có thấy rộng xa rõ ràng.
‘Ta thuyết pháp với toàn thắng trí,
Không phải không thắng trí mãn viên’.
‘Ta thuyết pháp có nhân duyên
Không phải không có nhân duyên’ dần dà.
‘Sa-môn Gô-Ta-Ma thuyết pháp,
Có cùng khắp về lực-thần-thông,
Không phải không lực-thần-thông’,
Là điều đệ tử hết lòng dựa nương.
III.- Trí tuệ tăng thượng :
* U-Đa-Dí ! Tinh tường nhiếp phục
Các đệ tử thán phục Như Lai
Về ‘Tăng thượng trí tuệ’ đây.
Không thể có sự kiện này xảy ra
Khi các đệ tử Ta suy nghĩ :
“ Đức Kiều-Đàm là vị tịnh thanh,
Ngài có trí tuệ sẵn dành,
Tuệ uẩn tối thượng tựu thành trước nay.
Tuy vậy, Ngài không thấy thấu đáo
Một luận đạo nào thuộc về sau,
Một luận nạn ngoại đạo nào
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 016
Khởi trong hiện tại ; mà sao Ngài thì
Không luận phá sau khi khéo léo
Nạn phá với Chánh Pháp thâm sâu ? ”.
U-Đa-Dí ! Nghĩ thế nào ?
Những đệ tử vốn thấy mau, biết liền,
Có thể nào thản nhiên làm chuyện
Gián đoạn sự diễn tiến nửa chừng
Khiến cuộc đàm thoại bị ngừng ? ”.
– “ Thưa không ! Chuyện ấy không từng xảy ra ! ”.
– “ U-Đa-Dí ! Nói qua điểm mới
Ta không chờ giáo giới uy nghi
Nơi đệ tử Ta thực thi.
Mà chính những đệ tử thì chờ Ta
Giáo giới họ, họ đà kính lễ.
Pháp thứ ba được kể như vầy,
Khiến các đệ tử Như Lai
Trọng Ta, tôn kính, thường hay cúng dường,
Sống tựa nương nơi Ta, an lạc.
IV.- Tứ Diệu Đế :
* U-Đa-Dí ! Điều khác nói về
Chúng sinh chìm đắm trong mê
Đệ tử Ta cũng cận kề khổ đau,
Bị khổ đau đêm ngày chi phối
Đến hỏi Ta cách đối phó nào ?
Hỏi Khổ Thánh Đế là sao ?
Ta giảng cho họ đuôi đầu khổ đây,
Làm họ thỏa mãn ngay tức khắc
Với trả lời chân thật của Ta.
Khổ, Tập, Diệt, Đạo (1) giảng ra
(1) : Xem chú thích trang kế .
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 017
Khiến thỏa mãn. Pháp đây là thứ tư
Mà đệ tử Ta như-pháp ấy
Cung kính Ta, lễ lạy, cúng dường,
Theo Ta để sống tựa nương.
V.- Con đường hành trì :
1) Tứ Niệm Xứ :
* Này U-Đa-Dí ! Lại thường trải qua
Ta giảng ra con đường tu tập
Được phổ cập đến khắp nơi nơi
Những đệ tử Ta mọi thời
Nương Bốn Niệm Xứ (2) chẳng lơi hành trì.
Vị Tỷ Kheo mọi thì tu tập
Phải như thật ‘Quán Thân trên thân’,
Chánh niệm, tỉnh giác, tinh cần
Tham ưu chế ngự, muôn phần tịnh yên.
Rồi đến ‘Quán Thọ trên các thọ’,
Luôn tỉnh giác và có tinh cần
Chế ngự tham ưu tự thân.
‘Quán Tâm trên chính tâm’, cần nhiệt tâm
Luôn tỉnh giác và thầm chánh niệm
_______________________________
(1) : (Trang trước ) Bốn Sự Thật hay Tứ Diệu Đế ( Ariyasacca ) :
Khổ Đế ( dukkha ), Tập Đế ( mudaya ), Diệt Đế ( nirodha )
và Đạo Đế ( magga ) ..
(2) : Kinh NIỆM XỨ ( Satipatthàna-sutta ) có 4 đế mục
quán niệm ( anupassanà ) :
- Quán Thân ( bất tịnh ) hay Niệm Thân ( Kàyànupassanà ) .
- Quán Thọ ( thị khổ ) hay Niệm Thọ ( Vedanànupassanà ) .
- Quán Tâm ( vô thường ) hay Niệm Tâm ( Cittànupasanà ) .
- Quán Pháp ( vô ngã ) hay Niệm Pháp ( Dhammànupassanà ) .
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 018
Để chế ngự, dứt điểm ưu tham.
‘Quán Pháp trên các pháp’ trần
Chánh niệm, tỉnh giác, tinh cần, nhiệt tâm
Để chế ngự ưu tham các thứ.
Đó là Bốn Niệm Xứ chánh chân.
2) Tứ Chánh Cần :
Rồi tu tập Bốn Chánh Cần : (1)
– Khiến ác, bất thiện pháp phần chưa sinh
Không cho sinh, khởi lên ý muốn
Mọi tình huống tinh tấn, tận tình.
– Ác, bất thiện pháp đã sinh
Cố trừ diệt, không cho sinh trưởng vào.
– Thiện pháp nào chưa sinh – sinh khởi.
– Đã sinh khởi – tăng trưởng, duy trì,
Cho được quảng đại, tu trì
Viên mãn. Ý muốn tức thì khởi ra
Cố gắng và sách tâm, tinh tấn.
Các đệ tử Ta vẫn đêm ngày
Phần đông an trú nơi đây
Sau khi chứng thắng trí này sâu xa,
Chứng đắc qua cứu cánh viên mãn.
3) Tứ Thần Túc :
* Ta lại giảng con đường tu hành
Tu Bốn Thần Túc (3) tịnh thanh
Câu hữu ‘Dục’, ‘Tinh tấn’ hành sâu xa,
______________________________
(1) : Tứ Chánh Cần ( Sammappaddhàna ) : a) Thiện vị sinh, sử
phát sinh .b) Thiện dĩ sinh, sử tăng trưởng . c) Ác vị sinh, sử
bất sinh . d) Ác dĩ sinh, sử đoạn diệt . (Điều lành chưa sinh,
hãy phát sinh , điều lành đã sinh, hãy tăng trưởng . Điều ác
chưa sinh, hãy đừng cho sinh ; điều ác đã sinh, hãy trừ diệt ).
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 019
‘Tư duy’ và ‘Trạch pháp thần túc’
Đệ tử Ta luôn thực hành ngay,
Chứng ngộ nhờ thắng trí này
Chứng đắc cứu cánh đủ đầy thực thi.
4) Ngũ Căn & 5) Ngũ Lực :
* Lại nữa, U-Đa-Di ! Ta giảng
Con đường tu viên mãn, năm phần
Tu tập Ngũ Lực & Ngũ Căn (2)
Hướng đến an tịnh, dẫn gần giác tân,
Tín & Tấn-Căn, Niệm và Định & Tuệ.
Tín & Tấn & Niệm & Định & Tuệ-Lực hành
Hướng đến giác ngộ tịnh thanh,
Đệ tử Ta đã thực hành cần chuyên.
6) Thất Giác Chi :
* U-Đa-Dí ! Thuận duyên Ta giảng
Con đường tu viên mãn, thanh cao
Tu tập Bảy Giác Chi mau.
‘Niệm giác chi’, y chỉ vào viễn ly
____________________________
(1) : Tứ Thần Túc ( Cattaro iddhipàdà ) còn gọi là Tứ Như Ý Túc
( 4 trong 37 Phẩm Trợ Bồ-Đề – Bodhipakkhiya dhamma ) gồm :
Dục thần túc [Chandiddhipàdo] ,Tinh Tấn thần túc [Viriyiddhi-
pàdo ], Tâm (Tư Duy) thần túc [Cittiddhipàdo ] và Trạch Pháp
( hay Trạch Quán ) thần túc [ Vimansid dhipàdo ] .
(2) : * Ngũ Căn – Pañcànam indriyànam , gồm :
a) Tín Căn ( Saddindriya ), b) Tấn Căn ( Viriyindriya ),
c) Niệm Căn ( Satindriya ), d) Định Căn ( Samàdhìndriya ),
e) Tuệ Căn ( Paññaindriya ) .
* Ngũ Lực – Pañcabala , gồm : a) Tín Lực ( Saddhabala ),
b) Tấn Lực ( Viriyabala ), c) Niệm Lực ( Satibala ),
d) Định Lực ( Samàdhibala ), e) Tuệ Lực ( Paññabala ) .
Là 10 trong 37 Phẩm Trợ Đạo .
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 020
Y chỉ ly tham, y chỉ diệt,
Hướng đến xả, cương quyết từ ly.
Tu tập ‘Trạch pháp giác chi’,
Tu tập ‘Tinh tấn giác chi’ hoàn toàn,
Tu tập ‘Hỷ’, ‘Khinh an’ và ‘Định’,
‘Xả giác chi’ an tịnh tu trì. (1)
Y chỉ vào sự viễn ly,
Ly-tham y-chỉ, diệt-y-chỉ đồng.
Đệ tử Ta phần đông trú vững
Sau khi chứng nhờ thắng trí, liền
Chứng đắc cứu cánh mãn viên.
7) Bát Chánh Đạo :
* Lại nữa, Ta giảng về duyên con đường
Để hướng dẫn các phương đệ tử
Hằng y cứ tu tập tịnh thanh
Đó là Thánh Đạo tám ngành
Với ‘chánh tri kiến’ thực hành đầu tiên,
‘Chánh tư duy’, mối giềng kế tiếp,
‘Chánh ngữ’ và ‘chánh nghiệp’ thẳng ngay,
‘Chánh mạng’, ‘chánh tinh tấn’ này,
‘Chánh niệm’,‘chánh định’ hành ngay kiên cường.
8) Tám Giải Thoát :
* Ta lại dạy con đường tu tập
Cho đệ tử pháp thật diệu vi
Tu Tám Giải Thoát’ tức thì.
____________________________
(1) : Thất Giác Chi – Bojjhanga (trong 37 Trợ Đạo Phẩm hay 37
Pháp Trợ Bồ Đề ), gồm : Niệm Giác Chi ( Sati ), Trạch Pháp
Giác Chi (Dhammavicaya ), Tinh Tấn Giác Chi (Viriya ), Phỉ
Giác Chi ( Pìti ), Khinh An Giác Chi ( Passadhi ), Định Giác
Chi ( Samàdhi ) và Xã Giác Chi ( Upekkhà ).
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 021
Và các đệ tử hành trì nghiêm minh.
– Quán ‘Tự mình có sắc, thấy sắc’,
Đó chính thật giải thoát đầu tiên.
– Rồi ‘Quán tưởng nội sắc’ liền
‘Thấy các ngoại sắc’, tương duyên như vầy,
Là giải thoát thứ hai vững chắc.
‘Quán tưởng sắc là tịnh’, ‘chú tâm
Trên suy tưởng ấy’, âm thầm
Như vậy, giải thoát này nhằm thứ ba.
– Rồi hoàn toàn ‘vượt qua sắc tưởng,
Diệt trừ tưởng đối ngại gần xa,
Những tưởng khác biệt bỏ qua,
Suy tư đến ‘Hư không là vô biên’,
Chứng, trú ‘Không Vô Biên Xứ’ đó (1)
Như vậy, có giải thoát thứ tư.
– Rồi hành giả không khoan thư,
Vượt khỏi Vô-biên-xứ hư-không liền,
‘Thức vô biên’ suy tư như vậy
Chứng, trú tại Xứ Thức Vô Biên (2)
Giải thoát thứ năm an nhiên.
– Thức-vô-biên Xứ này liền vượt ngay,
Suy tư vầy : ‘Không vật gì có’
Chứng Vô Sở Hữu Xứ (3), trú yên.
Giải thoát thứ sáu hiện tiền.
– Vô-sở-hữu Xứ vượt lên tức thì
Chứng Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
Là giải thoát thuộc thứ bảy ni.
__________________________
(1) : Không Vô Biên Xứ ( Àhàsànanca-yatanùpà ).
(2) : Thức Vô Biên Xứ ( Vinnànanca-yatanùpagà devà ).
(3) : Vô Sở Hữu Xứ ( Àkincanna-yatanùpagà devà ).
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 022
– Vượt Xứ Phi-tưởng-phi-phi… (1)
Diệt Thọ Tưởng chứng, trú – ly khổ sầu.
Đây thuộc vào giải thoát thứ tám.
Các đệ tử cố gắng đêm ngày
Phần đông an trú nơi đây
Sau khi chứng thắng trí này sâu xa,
Chứng đắc qua cứu cánh viên mãn.
9) Tám Thắng Xứ :
Ta lại giảng con đường tu hành,
Tu Tám Thắng Xứ tịnh thanh.
Một vị quán tưởng, thấy nhanh một điều :
– Quán nội sắc, thấy nhiều ngoại sắc
Hạn lượng, sắc đẹp xấu khác nhau.
Vị ấy nhận thức như sau :
‘Sau khi nhiếp thắng chúng mau cấp kỳ
Thời ta biết, ta thì thấy rõ’.
Thắng xứ đó thứ nhất kể ra.
– Quán tưởng nội sắc trải qua
Vị ấy thấy ngoạì sắc ra vô lường,
Đẹp hay xấu. Tinh tường nhận thức :
‘Nhiếp thắng chúng, ta thực kiến, tri’.
Đó là thắng xứ thứ nhì.
– Quán tưởng vô sắc thuộc vì nội tâm
Thấy ngoại sắc trong tầm hạn lượng,
Đẹp hay xấu. Ý tưởng nhận ra :
‘Sau nhiếp thắng chúng thì ta
Thấy, biết rõ’. Thắng xứ ba hiểu tường.
______________________________
(1) : Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ ( Nevassannà-nasannà-
yatanùpagà devà ).
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 023
– Một vị thường quán tưởng vô sắc
Ở nội tâm, thấy thật tinh tường
Ngoại sắc đẹp, xấu , vô lường,
Nhận thức: ‘Nhiếp thắng chúng thưởng kiến, tri’.
Thắng xứ ni thứ tư chắc thật.
– Quán tưởng về vô sắc, nội tâm
Thấy các ngoại sắc màu xanh,
Sắc màu xanh, hình sắc xanh như vầy.
Như bông gai màu xanh ; hình sắc
Và ánh sáng đều thật màu xanh.
Như lụa Ba-La-Nại xanh,
Sắc màu xanh, hình sắc xanh hài hòa,
Và cả hai mặt đều trơn láng,
Hình sắc xanh, ánh sáng cũng xanh.
Vị ấy liền nhận thức rằng :
‘Sau nhiếp thắng chúng, ta hằng kiến, tri’.
Thắng xứ ni thứ năm được kể.
– Thắng xứ kế : Ngoại sắc vàng ra
Như bông Ka-Ni-Ka-Ra (1)
– Rồi vị ấy quán tưởng qua tức thì
Banh-Thu-Chi-Va-Ka (2) bông đỏ,
Hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ thường.
Thắng xứ sáu, bảy kể luôn.
– Quán vô sắc với tinh tường nội tâm
Thấy ngoại sắc đều nhằm màu trắng,
Hình sắc trắng, ánh sáng trắng hoài
Như Ô-Sa-Thi (3) sao mai
Lụa Ba-La-Nại (1) cả hai mặt đều
__________________________
(1) : Hoa Kanikara . (2) : Hoa Bandhujivaka .
(3) : Sao Osadhi .
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 024
Hình sắc trắng và đều trơn láng,
Và ánh sáng cũng trắng hài hòa.
Vị ấy liền nhận thức là :
‘Sau nhiếp thắng chúng, ta đà kiến, tri’. (2 )
Thắng xứ ni thứ tám tuần tự.
Đệ tử Ta an trú phần đông
Chứng ngộ nhờ thắng trí xong,
Chứng đắc cứu cánh cũng đồng mãn viên.
10) Mười Biến Xứ :
U-Đa-Di ! Ta tuyên thuyết giảng
Con đường tu viên mãn, tịnh thanh,
Các đệ tử Ta thực hành
Theo Mười Biến Xứ thiện lành, thanh cao.
Một vị nào biết Đất biến-xứ
Trên, dưới, ngang, bất nhị, vô lường,
Vị ấy cũng biết tinh tường
Nước, Lửa biến-xứ, cũng dường Gió đây,
Biết được ngay Vàng, Xanh biến-xứ,
Đỏ, Trắng biến-xứ như vầy,
Hư Không & Thức biến-xứ này
Bất nhị, trên, dưới, ngang hay vô lường.
11) Bốn Thiền-na :
U-Đa-Dí ! Ta thường thuyết giảng
Bốn Thiền, tu viên mãn, nhẹ nhàng.
Lạc thọ sinh do khinh an
Đạt được như thế, tâm an định liền
___________________________
( ) : Lụa của Xứ Ba-la-nại – Baranasi , cách vườn Lộc Uyển ( nơi
Đức Phật chuyển Pháp luân, bắt đầu hoằng khai Chánh Pháp .
(2) : Xin dùng 2 từ ‘Kiến’,‘Tri’ thay cho Thấy, Biết, để hợp vần .
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 025
Ly ác pháp, Tỷ Kheo ly dục
Chứng và trú vào mục Nhất Thiền
Trạng thái hỷ lạc tự tâm
Sinh do ly dục, với Tầm, Tứ chuyên
Đệ Nhất Thiền, Tỷ Kheo thấm nhuận
Như tẩm ướt, sung mãn, tràn nhanh
Hỷ lạc do ly dục sanh
Với Tầm, với Tứ thấm quanh mọi thời.
U-Đa-Dí ! Như người hầu tắm
Thật lão luyện, lo sắm sửa mau
Rắc bột tắm vào trong thau
Rồi dùng bột ấy nhồi vào nước trong.
Nhào trộn ướt, nhưng không chảy giọt.
Cũng như vậy, với một Tỷ Kheo
Tẩm nhuận, sủng ướt, thấm theo
Toàn thân không có chỗ nào còn khô.
* U-Đa-Dí ! Lộ đồ tiếp nữa
Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền
Diệt Tầm, diệt Tứ được yên
Thì chứng và trú vào Thiền thứ Hai
Một trạng thái ra ngoài Tầm, Tứ
Do Định sinh, nội tỉnh nhất tâm
Tỷ Kheo ấy đã thấm nhuần
Tẩm ướt, sung mãn khắp thân của mình
Do Định sinh, tràn đầy hỷ lạc
Không chỗ nào hỷ lạc chẳng nhuần.
U- Đa-Di ! Tại cội nguồn
Có một hồ nước, nước tuông dâng đầy
Cả nam, bắc, đông, tây các chỗ
Không có lỗ thoát nước chảy ra
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 026
Suối nước mát lạnh phun ra
Làm cho đẫm ướt, thấm qua dâng tràn
Thỉnh thoảng mưa, hồ càng tẩm ướt
Không chỗ nào không được tràn dâng
Tỷ Kheo ấy đã thấm nhuần
Tẩm ướt, sung mãn khắp thân của mình.
* U-Đa-Dí ! Hành trình lại nữa
Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền
Ly hỷ trú xả, tâm yên
Chánh niệm tỉnh giác, thân liền an nhiên.
Sự lạc thọ, thánh hiền gọi đủ
Là ‘xả niệm lạc trú’ tâm chuyên
Chứng và an trú Tam Thiền
Tỷ Kheo đẫm ướt, thấm tuyền khắp thân.
Sự lạc thọ, không cần có hỷ
Lạc thọ ấy thấm kỹ toàn thân
Không một chỗ nào trên thân
Mà Lạc thọ đó không phần thấm vô.
U-Đa-Dí ! Như hồ sen trắng
Cả sen hồng chen lẫn sen xanh
Những hoa sen ấy đều sanh
Từ trong hồ nước, lớn nhanh từng ngày
Nhưng chúng vẫn chưa ngoi khỏi nước
Từ gốc rễ đẫm ướt tới đầu
Toàn thân gốc ngọn thấm sâu
Tỷ Kheo vị ấy thấm vào giống y
Với lạc thọ, không đi với hỷ
Đã thấm kỹ, sung mãn tràn đầy
Chứng đắc vào Tam Thiền này
Hành giả an lạc, tâm rày vui an.
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 027
* U-Đa-Dí ! Tiếp sang bước nữa
Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền
Xả lạc, xả khổ ; tâm yên
Diệt hỷ, ưu. cảm thọ - liền trước đây
Chứng và trú vào Thiền Đệ Tứ
Không khổ, lạc ; không giữ niệm nào
Thanh tịnh, an lạc tiêu dao
Như Tỷ Kheo ấy thấm sâu, ướt đầm
Được thấm nhuần với tâm thuần tịnh
Và trong sáng, trong chính thân này.
U-Đa-Dí ! Ví như đây
Có người ngồi, lấy vải dày trắng tinh
Khắp cả thân, đầu mình trùm cả
Không chỗ nào mà gã không trùm
Cũng vậy, Tỷ Kheo thấm nhuần
Với Tâm Thuần Tịnh gội nhuần khắp ngay.
Và ở đây, này U-Đa-Dí !
Đệ tử Ta, thắng trí nhờ đây
An trú sau chứng ngộ ngay
Cứu cánh chứng đắc tròn đầy, diệu vi.
12) Trí Tuệ :
U-Đa-Di ! Ta lại thuyết giảng
Con đường tu viên mãn, thẳng ngay
Biết rằng : Thân của ta đây
Chính là Sắc pháp, thân này do sanh
Do bốn đại tác thành hoàn hảo
Cha mẹ nuôi, cơm cháo, vô thường
Biến hoại, đoạn tuyệt ; đáng thương
Phấn toái, hoại diệt. Nhưng nương thân này.
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 028
Thức tánh ta bị giây trói buộc
Trong thân ấy, lệ thuộc mọi thì.
Ví có hòn ngọc lưu ly
Rất là quý giá, sánh bì bảo châu
Rất sáng đẹp, không màu, trong suốt
Có tám mặt, đã được khéo mài
Chẳng trầy trụa, rực rỡ thay !
Lấp lánh chói lọi đêm ngày sáng trưng.
Các sợi giây xâu từng lần một
Sợi màu vàng, sợi trắng, đỏ, xanh
Một người đôi mắt tinh anh
Nhìn vào hòn ngọc, thấy rành bảo châu
Là báu vật chẳng đâu thấy có
Các sợi giây vàng, đỏ, trắng, xanh
Được xâu lần lượt khéo rành
Thấy được màu sắc long lanh ngọc ròng.
Đệ tử Ta phần đông an trú
Sau chứng ngộ nhờ thắng trí này
Chứng đắc cứu cánh tròn đầy.
13) Thân do Ý :
Này U-Đa-Dí ! Như Lai dạy rành
Đường tu hành cho các đệ tử
Hướng tâm đến Hóa Hiện Thân nơi
Do ý làm ra tức thời
Tạo một thân khác từ nơi thân này
Thân mới ấy cũng tày Sắc pháp
Do ý sinh, đủ các căn phần
Mắt, tai, mũi, lưỡi, tay chân
Toàn thân không thiếu một căn chi nào.
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 029
U-Đa-Dí ! Như vào ví dụ :
Một trại chủ cầm một cây lau
Rút lau ra khỏi vỏ lau
Rồi nghĩ : Đây vỏ, đây lau – khác rồi
Cây lau khác, vỏ thời khác đó
Nhưng cây lau từ vỏ rút ra.
Cũng như vỏ kiếm nạm ngà
Rút ra thanh kiếm sáng lòa, quý thay !
Thanh kiếm khác, vỏ này khác đó
Nhưng cây kiếm từ vỏ rút ra.
Hay như con rắn lột da
Đây là con rắn, đây là vỏ da
Vỏ da rắn không là con rắn
Nhưng rắn từ vỏ rắn lột ra
Đây những thí dụ thấy qua
Cái này từ cái kia mà có đây.
14) Thần Túc Thông :
U-Đa-Dí ! Như Lai giảng tới
Hướng tâm tới thần thông xuất trần
Một thân hiện ra nhiều thân
Nhiều thân thu lại một thân dễ dàng
Hiện, biến hình, đi ngang qua vách
Xuyên qua núi như cách hư không
Độn thổ, trồi lên đất giồng
Đi được trên nước cũng không chìm nào
Ngồi kiết già trên cao vòi vọi
Bay trên không như loại chim bằng
Với tay chạm mặt trời, trăng
Có đại oai lực, oai thần uy linh
Hoặc có thể tự mình bay tới
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 030
Cõi Phạm Thiên vời vợi nơi này.
Ví người thợ gốm khéo tay
Đất sét nhồi nhuyển, người này làm ra
Đồ gia dụng tùy qua sở thích.
Hay thợ ngà thực đích lành nghề
Khéo đẻo chạm với tay nghề
Đồ ngà tùy thích mọi bề làm ra.
Hay như là thợ vàng rất khéo
Dùng vàng ròng tạo chế nữ trang
Các loại trang sức bằng vàng
Thật là tinh xảo, đẹp sang vô cùng.
Đệ tử Ta phần đông trú vững
Sau khi chứng nhờ thắng trí này
Chứng đắc cứu cánh tròn đầy.
15) Thiên Nhĩ Thông :
U-Đa-Dí ! Ta giảng ngay con đường
Để đệ tử các phương hành kỹ.
Đạt thiên nhĩ nghe đến vô ngần
Với Tai thanh tịnh siêu nhân
Vị ấy có thể nghe gần nghe xa
Hai loại tiếng : người ta và loại
Tiếng chư Thiên các cõi nghe rành.
Ta thuyết giảng con đường lành
Thuộc về thiên nhĩ tịnh thanh đủ đầy.
U-Đa-Dí ! Như vầy thí dụ :
Có một người chăm chú qua đàng
Bỗng nghe tiếng trống rộn ràng
Trống lớn, trống nhỏ, muôn ngàn âm thanh
Tiếng xập xỏa, tiếng loa, tiếng kiểng
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 031
Người ấy nghe và hiểu tận tường
Âm thanh trầm bổng du dương
Tiếng trong, tiếng đục, âm vương vấn hoài.
16) Tha Tâm Thông :
Ta lại dạy đường ngay nẽo chánh
Cho đệ tử tinh tấn tu hành
Đi sâu vào tâm chúng sanh
Tâm người khác do tâm mình hiểu thâm.
Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với
Tha tâm thông, dẫn tới biết ngay
Tâm của người khác hằng ngày
Tâm tham cũng biết, không tham biết liền
Tâm nổi sân, biết liền sân hận
Tâm không sân không hận cũng tường
Tâm Si hay không Si thường
Chuyên chú, tán loạn biết dường tự tâm
Đại hành tâm, biết là như vậy
Hoặc không phải là đại hành tâm
Tâm vô thượng, biết rõ ràng
Tâm chưa vô thượng lại càng biết thông
Tâm thiền định hay không thiền định
Tâm giải thoát hay dính buộc ràng
Vị ấy đều biết rõ ràng
Tâm của người khác ; cả hàng trí, ngu.
U-Đa-Dí ! Ví như đơn cử
Có một người thiếu nữ, hay là
Thanh niên, đàn ông, đàn bà
Tính ưa trang sức, nhìn vào trong gương
Thật sáng trưng, hay trong chậu nước
Thấy mặt mình, biết được thế này :
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 032
Có tỳ vết thì biết ngay
Nếu không tỳ vết, mặt mày sạch thay !
Cũng như vầy, Ta dạy đệ tử
Tha tâm thông, khi tự đạt xong
Các đệ tử Ta phần đông
An trú, sau chứng ngộ xong nhờ vào
Thắng trí sâu, chứng đắc cứu cánh.
17) Túc Mạng Thông :
Ta lại giảng chân chánh con đường
Cho hàng đệ tử các phương
Tu tập các pháp vô lường uyên thâm.
Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với
Túc Mạng Thông, nhớ tới nhiều đời
Quá khứ với một, hai đời
Năm chục, ba bốn trăm đời đã qua
Một ngàn đời hay là hơn nữa
Một trăm ngàn đời thuở lâu xa
Hoại kiếp, thành kiếp trải qua
Vị ấy nhớ lại như là mới đây.
Tại nơi ấy, tên này ta có
Thuộc giai cấp, giòng họ thế này
Uống, ăn, thọ khổ, lạc rày
Tuổi thọ như thế, chết ngày ra sao
Ta tái sinh, nhằm vào làng đó
Có tên tuổi, giòng họ thế nào
Cứ thế, nhớ lại biết bao
Tiền kiếp, tái kiếp không sao đếm rồi.
Vị ấy nhớ các đời quá khứ
Với đủ thứ chi tiết, đại cương
Vị ấy đều biết tỏ tường
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 033
Qua rất nhiều kiếp không lường sánh chi !
U-Đa-Di ! Ví như một gã
Từ làng mình đi quá làng bên
Từ làng bên lại đi lên
Đến một làng khác rồi bèn trở lui
Về làng mình, bùi ngùi nhớ lại :
Cuộc hành trình đã trải đi qua
Đến làng bên, gặp người ta
Đủ cả lớn bé, người già, trẻ con
Tại nơi ấy, ta còn kỷ niệm
Ngồi nơi nào, chuyện phiếm ra sao.
Rời làng ấy, ta lại vào
Một làng khác nữa, biết bao chuyện còn
Gặp người lớn, trẻ con thôn ấp
Nói chuyện gì, cao thấp, đứng ngồi
Trở về làng cũ của tôi
Lại rất nhiều chuyện nổi trôi hằng ngày.
Đệ tử Ta như vầy tu tập
Nhớ tiền kiếp sinh khắp tây đông,
Và họ an trú phần đông
Nhờ thắng trí, chứng ngộ xong hòa hài,
Và chứng đắc tròn đầy cứu cánh.
18) Thiên Nhãn Thông :
Ta lại dạy chân chánh con đường
Cho hàng đệ tử các phương
Tu tập các pháp vô lường uyên thâm.
Vị Tỷ Kheo hướng tâm đến với
Thiên Nhãn Thông, dẫn tới tuệ minh
Xét về sinh tử chúng sinh
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 034
Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy liền
Vị ấy biết mối giềng Nghiệp quả
Người hạ liệt, kẻ cả giàu sang
Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn
Đều do hạnh nghiệp trắng đen họ làm.
Gieo ác hạnh về thân, khẩu, ý
Hoặc phỉ báng các vị Thánh Hiền
Người này thân hoại, tận duyên
Do nghiệp tà kiến, đọa liền súc sinh
Các cõi dữ, như sinh địa ngục
Hoặc đọa xứ, thằng thúc nạn tai.
Còn bậc hiền giả, những ai
Làm những thiện hạnh ý và lời, thân
Không phỉ báng Hiền nhân, Thánh hiển
Tạo nghiệp lành, chánh kiến vô cùng
Sau khi thân hoại mạng chung
Được sinh thiện thú, nhân trung, cõi trời
Do thiên nhãn, biết đời sống chết
Người hạ liệt hay kẻ giàu sang
Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn
Người này bất hạnh, kẻ bèn gặp may
Do hạnh nghiệp kẻ này hành động
Có kết quả chẳng giống nhau vầy,
Dữ lành do nghiệp trả vay
Không ai tánh khỏi trong hai nghiệp này.
U-Đa-Di ! Như vầy ví dụ :
Một tòa lầu có đủ kiều phù
Lầu này ở giữa ngã tư
Một người mắt sáng đến từ phương xa
Lên thượng đài, anh ta thấy rõ
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 035
Người ra vào các ngõ bốn phương
Nhiều người qua lại trên đường
Leo lên đài thượng hay dừng ngã tư
Những người khác đến từ nhiều hướng
Đi giữa đường hoặc đứng nhìn chơi
Chỉ bằng đôi mắt sáng ngời
Người ấy thấy được mọi người rõ nhanh !
Đệ tử Ta tu hành viên mãn
Với thiên nhãn thuần tịnh, tinh anh,
Thấy sự sống chết chúng sanh
Nhờ thắng trí, chứng ngộ nhanh như vầy,
Và chứng đắc tròn đầy cứu cánh.
19) Lậu Tận Thông :
Ta lại dạy chân chánh con đường
Cho hàng đệ tử các phương
Tu tập các pháp vô lường uyên thâm.
Vị Tỷ Kheo hướng tâm đến với
Lậu Tận Thông, dẫn tới biết rành
Lậu Tận Trí, biết ngọn ngành
Đây là sự Khổ, nguyên nhân đưa vào
Đây Khổ Diệt, đường nào diệt khổ
Biết như thật lậu-hoặc loại này
Nguyên nhân lậu-hoặc là đây
Diệt trừ lậu-hoặc, biết ngay con đường.
Nhờ hiểu biết, tận tường nhận thức
Tâm vị ấy rất mực sáng trong
Dục-lậu, hữu-lậu thoát xong
Thoát vô-minh-lậu, khỏi vòng trói trăn
Liền hiểu rõ : ‘Tự thân giải thoát
Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành
Trung Bộ (Tập 3) Đại Kinh 77 : SAKULUDÀYI * MLH – 036
Việc cần làm, đã thực hành
Sau đời hiện tại, Vô sanh hiển bày’.
U-Đa-Dí ! Như vầy ví dụ :
Dãy núi lớn đầy đủ nước trong
Không cấu nhiễm, sạch trắng bong
Một người mắt sáng sẽ trông rõ đồ
Những hòn sạn, con sò, hòn đá
Những con hến, đàn cá tung tăng
Trong tâm vị ấy nghĩ rằng
Nhờ mắt sáng thấy vô ngần điều hay.
* Đệ tử Ta như vầy tu tập
Đoạn tận các lậu-hoặc, vô minh
Nhờ thắng trí, chứng tự mình
Chứng đắc cứu cánh Vô sinh tròn đầy.
* * *
U-Đa-Dí ! Chính đây năm pháp,
Do năm pháp vi diệu khôn lường
Đệ tử Ta kính, cúng dường,
Đảnh lễ, tôn trọng, sống nương tựa hoài
Vào Như Lai, hướng về giải thoát.
Chứ không phải năm pháp tầm thường
Để hàng đệ tử tựa nương
Sau khi cung kính, cúng dường Như Lai ”.
Nghe Thế Tôn trình bày khúc chiết
Pháp siêu việt, cao thượng, diệu vi
Ông Sa-Kú-Lú-Đa-Di
Hoan hỷ tín thọ uy nghi lời Ngài ./-
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3L )
* * *
( Chấm dứt Kinh số 77 : SAKULUDAYI Sutta )
***