Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

118. Kinh Quán Niệm Hơi Thở

19/05/202011:30(Xem: 7857)
118. Kinh Quán Niệm Hơi Thở

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


118. Kinh NHẬP TỨC, XUẤT TỨC NIỆM

( Kinh Quán Niệm Hơi Thở

Anàpànasati sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, đức Thế Tôn Thiện Thệ 

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ – trú qua  (1)

              Đông Viên – Búp-Bá-Ra-Ma  (2)

       Mi-Ga-Ra-Má-Tú-Pa-Sá-Đề  (2)

          Tức thuộc về Giảng Đường Lộc Mẫu,

          Cùng với hàng Tăng Bảo tài ba 

              Như ngài Sa-Ri-Pút-Ta,  (3)

       Ma-Ha Mốc-Gá-La-Na, cùng là

          Ngài Ma-Ha Kách-Cha-Da-Ná,  (3) …

          Đại Chun-Đá, A-Nú-Rút-Tha,

              Ngài Ma-Ha Kốt-Thi-Ta,

      Rê-Va-Tá, A-Nan-Đa, cùng là

         Ma-Ha Káp-Pi-Na Tôn-giả,

         Cùng nhiều bậc Thượng Tọa tài danh

    _______________________________

 

(1) : Thành Xá-Vệ  –  Savatthi. Nơi có Kỳ Viên Tinh Xá.

(2) : Đông Phương Tự  – Pubbaràma hay Đông Viên, có Giảng

    Đường Lộc Mẫu – Migaramatupasade.

(3) : Các vị Tôn-giả : Mahà Sariputta (Xá-Lợi-Phật - đệ nhất Trí

   Tuệ), Mahà Moggallana (Mục-Kiền-Liên - đệ nhất Thần Thông),

   Mahà Cunda, Anuruttha (A-Nậu-Lâu-Đà hay A-Na-Luật - đệ 

  nhất Thiên Nhãn), Mahà Kotthita (Đại Câu-Hy-La - đệ nhất Đắc

  Giải), Revata (Ly-Bà-Đa - đệ nhất Thiền Định), Mahà Kappina

  (Đại Kiếp-Tân-Na - Đại Thần Thông). 

 

              Lúc ấy, các vị tịnh thanh

       Tỷ Kheo Thượng Tọa, bậc rành pháp môn

          Dạy các Tân Sa-môn Phích-Khú

          Khuyến giáo, dạy quy củ Thiền-gia.

              Một số Thượng Tọa trải qua

       Dạy cho mười vị mới, là Tỷ Kheo,

          Một số vị Tỷ Kheo Thượng Tọa

          Khuyến giáo, dạy cho cả hai mươi,

              Hoặc dạy ba mươi, bốn mươi.

       Các Tân Phích-Khú nghe lời dạy khuyên

          Của hiện tiền Giáo Thọ các vị,

          Đều hoan hỷ, ý thức rõ ràng

              Về những quả vị minh quang,

       Cao diệu, thù thắng của hàng xuất gia,

          Đã chứng đạt trải qua nhanh chậm.

 

          Lúc ấy, đấng Đại Giác uyên thâm

              Vào ngày Bố-tát đêm rằm

       Sau ngày Tự Tứ tháng âm trăng tròn,

           Đức Thế Tôn an tọa giữa Chúng

           Tỷ Kheo Tăng đang cũng ngồi quanh.

 

               Phật nhìn Chúng Tăng tịnh thanh

       Đang rất yên lặng, an lành ngồi yên,

          Thế Tôn liền bảo hàng Tăng Bảo :

 

    – “ Ta thỏa mãn với đạo lộ này,

             Các Tỷ Kheo ! Tâm Ta nay

       Thỏa mãn với đạo lộ đây nhiệm huyền,

          Các Tỷ Kheo ! cần chuyên hơn thế

          Để có thể chứng đạt những gì

              Mình chưa chứng đạt, liễu tri,

       Chứng ngộ viên mãn những chi chưa thành.   

 

 

          Xá-Vệ thành, Ta sẽ ở đó

          Đến tháng tư, lễ Kố-Mu-Đi ”. 

              Được nghe đức Chánh Biến Tri

       Sẽ ở lại Sa-Vát-Thi dài ngày,

          Những Tỷ Kheo nơi đây – Xá-Vệ

          Cùng các nơi gần kế Thành này

              Tụ họp tại xá-Vệ ngay

       Để được yết kiến bậc Thầy Nhân Thiên.

          Các Tỷ Kheo cao niên lạp trưởng

          Lại ra sức bồi dưỡng, dạy khuyên

              Các Tân Tỷ Kheo thanh niên

      (Hoặc là bán thế có duyên tu hành).

          Do các vị tịnh thanh Giáo Thọ

          Đã hết lòng dạy dỗ, răn khuyên

              Giảng dạy ý thức căn nguyên

       Hiểu rõ quả vị nhiệm huyền cao siêu,

          Rất thù thắng và nhiều vi diệu

          Nếu thấu hiểu, chứng đạt uyên thâm.

              Lại vào Bố-tát ngày rằm

       Trăng tròn vằng vặc, lễ nhằm tháng tư,

          Đấng Đại Từ ngồi trên bãi cỏ

          Chung quanh có Chúng Tăng đoanh vây.

              Phật nhìn Chúng Tăng nơi này

       Đang rất yên lặng, rồi Ngài nói ngay :  

 

    – “ Chúng Tăng này ! Đây là Hội Chúng

      _______________________________

 

(1) : Komudi là ngày trăng tròn tháng tư (Kattika) trong mùa

      Tự Tứ (Pavàranà) của Chư Tăng sau 3 tháng An cư Kiết hạ.

(2) : Bố-tát – Uposatha : Là ngày tụng đọc Giới-bổn Patimokkha-

    Sanvarasìla (Biệt biệt giải-thoát thu thúc giới) của Chư Tăng

   vào hai ngày Mùng 1 và 14 Âm-lịch mỗi tháng, để kiểm điểm sự

   giữ giới của mỗi vị và tùy theo mà phát lồ sám hối.

 

          Không thừa thải mà cũng không dư,

              Đã được an trú ví như

       Lõi cây thanh tịnh, đồng cư an lành.

          Với hội chúng tịnh thanh như thế

          Đáng tôn trọng, kính lễ, cúng dường,

              Đáng được chắp tay tán dương,

       Ruộng phước vô thượng thanh lương trên đời.

 

          Tăng Chúng ấy là nơi đạt được :

          Bố thí ít được phước báo nhiều,

              Nếu mà càng bố thí nhiều

       Thì được phước báo càng nhiều hơn lên.

          Hội Chúng trên – Tỷ Kheo Tăng ấy

          Là hội chúng khó thấy ở đời,

              Xứng đáng để cho những người

       Tín tâm, đi bộ từ nơi của mình

          Trải qua nhiều do-tuần diệu vợi,

          Trên vai với lương thực đầy bao

              Đi đến nơi bậc thanh cao

      (Hội chúng Tăng Bảo) đê đầu lễ tôn

          Chúng Tỷ Kheo sa-môn này vậy.

          Hội Chúng ấy thanh tịnh, hợp hòa.

 

              Trong Chúng Tỷ Kheo kể ra

       Có những Phích-Khú chính là Thánh Tăng

          A-La-Hán (4) đã hằng đoạn tận

          Các lậu-hoặc, Phạm hạnh đã thành

              Việc cần làm đã thi hành,

       Gánh nặng đã được đặt nhanh xuống rồi,

          Mục đích đã tức thời thành đạt

          Hữu-kiết-sử, các ác diệt rày,

    ________________________________

(4) : Xem chú thích ở trang kế.

 

              Giải thoát nhờ chánh trí vầy,

       Chúng Tăng có các vị này nghiêm trang.

          Trong hội chúng các hàng Phích-Khú

          Năm hạ phần kiết-sử diệt trừ

              Hóa sinh cõi Trời Tịnh Cư

       Chứng Bất-Lai quả (3) và từ cõi đây

          Sẽ nhập Niết Bàn đầy tự tại

          Không còn sinh trở lại cõi đời.

              Bậc A-Na-Hàm này thời

       Có mặt trong hội chúng nơi Tăng Già.

 

          Các Tỷ Kheo (hay là Phích-Khú)

          Đoạn trừ ba kiết-sử thực thi

              Muội lược cả tham, sân, si

       Chứng Nhất Lai quả (2) bởi vì vị đây

          Còn tái sinh đời này một kiếp,

          Sẽ đoạn hết phiền não khổ đau.  

              Bậc Tỷ Kheo này thanh cao

       Cũng có hiện diện, hoà vào Chúng Tăng.

 

          Các Tỷ Kheo ! Trong Tăng Chúng đó

          Cũng đã có những vị Tỷ Kheo

              Diệt ba kiết sử dính đeo

       Chứng Dự-Lưu quả (1) nương theo pháp lành

          Không còn sanh vào ác đạo lộ,

          Sẽ giác ngộ bảy kiếp về sau.

    _______________________________

 

*  Bốn thánh quả Thinh-Văn-Giác  : (1) :Tu-Đà-Hoàn ( Sotàpatti )   hay Dự Lưu quả hoặc Thất Lai quả (chỉ còn sinh lại thế gian 7 lần) (2) : Tư-Đà-Hàm ( Sakadàgàmi ) hay Nhất Lai quả (sinh lại 1 lần) 

(3) : A-Na-Hàm ( Anàgàmi ) hay Bất Lai quả ( sinh lên cung trời

      Tịnh Cư (Suddhàvàsa) để tiếp tục tu và nhập Vô Dư Niết Bàn .   

(4) : A-La-Hán ( Araham ) được dịch là Vô Sanh , Vô Học , Ứng

       Cúng , sau khi mạng chung sẽ tấn nhập Vô Dư Niết Bàn .

 

              Bậc Tỷ Kheo này thanh cao

       Cũng có hiện diện, hòa vào Chúng Tăng.

 

          Các Tỷ Kheo ! Trong Tăng Chúng đó

          Cũng đã có Tỷ Kheo chuyên tâm

              Tu Bốn niệm-xứ chú tâm

       Bậc Tỷ Kheo đó cũng nằm trong Tăng.

          Các Tỷ Kheo ! trong Tăng Chúng đó

          Cũng đã có những vị tinh cần

              Chuyên tâm, chú tâm tu phần

       Bốn như-ý-túc & Chánh cần hai đôi,

          Năm căn, năm lực rồi cố gắng

          Bảy giác-chi tinh tấn hành trì.

              Các bậc Tỷ Kheo uy nghi

       Tám ngành Thánh đạo mọi thì chuyên tâm

          Và chú tâm nỗ lực tu tập,

          Các vị đều có mặt trong Tăng.

 

              Các Tỷ Kheo ! Trong Chúng Tăng

       Cũng có những vị chuyên cần, chú tâm

          Tu tập về từ tâm, bi mẫn,

          Hỷ tâm lẫn xả tâm hành trì

              Đều có trong Tăng Chúng ni.

       Các bậc tinh tấn mọi thì chuyên tâm

          Và chú tâm tu tập bất tịnh,

          Vô thường tưởng, đặc tính chuyên tu

              Trong chúng chư vị Phích-Khu

       Đã có những vị Phích-Khu như vầy.   

          Trong Chúng Tỷ Kheo này cũng có

          Những Tỷ Kheo luôn cố chuyên tâm,

              Chú tâm tu tập về phần

      ‘Nhập tức, xuất tức niệm’ hằng dõi theo.  

 

 

(Quán niệm hơi thở)

 

          Các Tỷ Kheo ! ‘Nhập & xuất tức niệm’

          Tức ‘Quán niệm hơi thở’ đề tài

              Nếu được tu tập hằng ngày,

       Làm cho sung mãn, đưa ngay đến điều

          Được quả lớn, được nhiều công đức,

          Niệm nhập tức, xuất tức cần chuyên

              Làm cho sung mãn, là duyên

       Khiến ‘bốn niệm xứ’ được viên mãn liền.

          Bốn niệm xứ được siêng tu vậy

          Sung mãn, khiến cho ‘bảy giác chi’

              Được viên mãn. Và một khi

       Được tu tập bảy giác chi đủ đầy,

         ‘Minh giải thoát’ đạt ngay viên mãn.

 

          Các Tỷ Kheo ! Công đoạn thế nào

              Là tu thở ra thở vào

       Làm cho sung mãn là sao điều này ?

          Như thế nào đạt ngay quả lớn,

          Công đức lớn do quán niệm này ?

 

              Này các Tỷ Kheo ! Ở đây

       Vị Tỷ Kheo ấy đến ngay rừng già,

          Hoặc gốc cây, ngôi nhà trống vắng,

          Ngồi kiết già lưng thẳng, an như

              Chánh niệm thở vô khoan thư,

       Chánh niệm, vị ấy từ từ thở ra,

          Vị ấy biết thở ra dài, ngắn,

          Hay thở vô dài, ngắn – biết ngay.

              Vị ấy cũng biết như vầy :

      ‘Cảm giác cả toàn thân’ này biết mau,

          Tập thở vào, thở ra sâu, chậm,        

         ‘An tịnh thân hành’ chậm, sâu – và

             ‘An tịnh thân hành’ thở ra,

      ‘Thân hành an tịnh’ rồi ta thở vào.

          Tôi thở vào : ‘cảm giác hỷ thọ’,

          Tập : ‘cảm giác hỷ thọ’, thở ra.

             ‘Cảm giác lạc thọ’ thở ra

      ‘Cảm giác lạc thọ’, rồi ta thở vào.

         ‘Cảm giác tâm hành’ nào tôi tập

          Nhẹ thở vào rồi tập thở ra.

             ‘An tịnh tâm hành’, thở ra

      ‘An tịnh tâm hành’ tập và thở vô.

          Tôi thở vô ‘về tâm cảm giác’

          Tập ‘cảm giác về tâm’, thở ra

             ‘Tâm hân hoan’ thở vào & ra 

       Với ‘tâm định tĩnh’ thở ra, thở vào.

         ‘Tâm giải thoát’ thở vào & ra, tập

          Vị ấy tập về ‘quán vô thường’

               Thở vô, thở ra hiểu tường.

      ‘Ly tham’, ‘đoạn diệt’ quán nương không rời.

 

          Thở vào rồi thở ra sâu, chậm

         ‘Quán từ bỏ’ sâu, chậm thở ngay,

              Thở vô, thở ra tập vầy

      ‘Quán niệm hơi thở’ đêm ngày cần chuyên,

          Tu tập siêng, làm cho sung mãn

          Thời căn bản được quả lớn ngay,

              Được công đức lớn, sâu dày.

 

(Làm viên mãn Bốn Niệm Xứ)

 

       Các Tỷ Kheo ! Thế nào đây hành trì

         ‘Quán hơi thở’ mọi thì tu tập ?

Làm sao thật sung mãn pháp này ?   

              Khiến ‘bốn niệm xứ’ tròn đầy ?

       Các Tỷ Kheo ! Khi vị đây thở vào,

          Thở ra sao ? Thở vào dài, ngắn,

          Hay dài, ngắn – vị ấy thở ra,

              Cảm giác cả toàn thân, và

       Thân hành an tịnh, thở ra, thở vào.

          Vị ấy tập thở vào, ra đó

          Trong khi có quán thân trên thân,

              Vị Tỷ Kheo ấy trú an

       Nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm cần chánh chân,

          Chế ngự phần tham, ưu tích tụ.

 

          Các Phích-Khú ! Đối với các thân

              Vị ấy an trú, nhiệt tâm

       Tỉnh giác, chánh niệm, quyết tâm thật nhiều,

          Chế ngự điều tham, ưu cõi thế.

 

          Các Tỷ Kheo ! Cứ thế, vị này

              Nghĩ : ‘Cảm giác hỷ thọ’ đây

       Tôi thở vô, thở ra ngay, thực hành,

          Cảm giác lạc thọ mình tập thở

          Tôi tập thở vào đoạn thở ra.

              Cảm giác tâm hành tập, và

       Tâm hành an tịnh thở ra, vào – thì

          Vị ấy trong khi tùy quán thọ

          Trên các thọ, vị ấy trú thầm

              Tỉnh giác, chánh niệm, nhiệt tâm

       Cần để chế ngự ưu, tham đời này.

 

          Các Tỷ Kheo ! Ở đây đối với

          Các cảm thọ, tôi nói đây là

              Đích thị là một, tức là

       Thực hành quán niệm thở ra, thở vào.

          Các Tỷ Kheo ! Khi nào vốn dĩ

          Vị ấy nghĩ : ‘Với cảm giác tâm

              Tôi thở vô, ra – tập thầm 

      ‘Với tâm hoan hỷ’ âm thầm thở ra,

          Thở vô và ‘với tâm thiền-định’

         ‘Tâm giải thoát’, tập tính thở đều

              Vào, ra, sâu, chậm dõi theo

       Trong khi tùy ‘quán tâm đều trên tâm’.

 

          Các Tỷ Kheo ! Nhiệt tâm Phích-Khú 

          Tỉnh giác, trú, chánh niệm mọi thời

              Chế ngự tham, ưu ở đời.

 

       Này các Phích-Khú ! Quán hơi thở thời

          Không thể đến với người thất niệm

          Không tỉnh giác, không kiểm soát tâm.

              Khi nào vị ấy nghĩ thầm :

      ‘Quán vô thường’, tôi chú tâm thở vào

          Rồi thở ra, chậm, sâu – tôi tập.

          Tôi cũng tập về ‘quán ly tham’

             ‘Quán đoạn diệt’ tôi thực hành,

      ‘Quán từ bỏ’, thở an lành vàp, ra.

          Trong khi mà ‘quán trên các pháp’

          Thời thích hạp vị ấy trú an

              Tỉnh giác, chánh niệm, nhiệt tâm

       Cần để chế ngự ưu, tham ở đời.

 

          Do tức thời tham, ưu trừ diệt  

          Khi thấy, biết với trí tuệ, thì

              Khéo nhìn với sự xả ly

       Tất cả sự vật, nên Tỳ-Kheo khi

          Thực hành tùy ‘quán pháp trên pháp’

          Và Tỷ Kheo an lạc, tịnh thanh 

              An trú, tỉnh giác, nhiệt tâm,

       Chánh niệm, chế ngự ưu, tham ở đời.

          Do từ nơi tham, ưu trừ diệt

          Khi thấy, biết với trí tuệ, thì

              Cái nhìn với sự xả ly.

 

       Này các Phích-Khú ! Trong khi vững bền

          Quán pháp trên các pháp như thế,

          Vị Tỷ Kheo được kể trú an,

              Tỉnh giác, chánh niệm, nhiệt tâm

       Cần để chế ngự ưu, tham ở đời.

          Nếu ‘quán hơi thở’ được tu tập

          Làm sung mãn cùng khắp như vầy

              Khiến ‘bốn niệm xứ’ tròn đầy.

 

(Làm viên mãn Bảy Giác Chi)

 

       Bốn niệm xứ ấy ở đây thế nào

          Được tu tập ? Thế nào sung mãn

          Khiến viên mãn cho ‘bảy giác chi’ ?

              Này các Tỷ Kheo ! Trong khi

       Tùy quán thân trên thân, thì vị đây

          Trú, nhiệt tâm và đầy tỉnh giác

          Chánh niệm, chế ngự các ưu, tham,

              Lúc ấy, niệm không mê đam

       Của Tỷ Kheo ấy được an trú về

          Lúc niệm không hôn mê vị ấy.

          Được an trú như vậy, đồng thì

              Trong khi ấy, niệm giác chi

       Bắt đầu được khởi với vì Tỷ Kheo.

 

         ‘Niệm giác chi’ Tỷ Kheo tu tập

          Đi đến thật viên mãn (tròn đầy)

              An trú với chánh niệm này,

       Tư duy chân chánh, vị này suy tư,

          Thẩm sát pháp ấy từ trí tuệ

          Từ sự thể chánh niệm trú qua,

              Tỷ Kheo với trí tuệ, mà

       Tư duy, suy gẫm, thẩm tra pháp này,

         ‘Trạch pháp giác chi’ nay được khởi

          Vị ấy tu tập với pháp ni

             (Tức là trạch-pháp giác-chi)

       Tu tập mãi cho đến khi tròn đầy.

 

          Tỷ Kheo này tiếp tục tu tập

          Được thu thập kết quả tạo nên

             ‘Tinh tấn giác chi’ khởi lên,

      ‘Hỷ giác chi’ cũng khởi lên tròn đầy.

         ‘Khinh an giác chi’ đây được khởi

          Chính do bởi Tỷ Kheo hành trì

              Tu tập Khinh-an giác-chi 

       Đi đến sung mãn ‘giác chi’ hoàn toàn.

          Vị có thân khinh an như vậy

          Tâm vị ấy định tĩnh, an hòa

             ‘Định giác chi’ được khởi ra

       Với tâm định tĩnh trải qua, vị này

          Khéo nhìn sự vật đây mọi điểm

          Với ý niệm xả ly tức thì.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Trong khi 

       Với tâm định tĩnh, niệm thì xả ly

         ‘Xả giác chi’ bắt đầu khởi dậy

          Trong khi giác-chi ấy hành trì

              Làm cho sung mãn tức thì.

       Này các Phích-Khú ! Trong khi vị này

         ‘Quán thọ ngay trên các cảm thọ’,            

          Hay vị đó ‘quán tâm trên tâm’,

             ‘Quán pháp trên các pháp’ cần

       Tu tập lần lượt các phần nêu trên.

          Bảy giác-chi khởi lên tuần tự

          Vị Phích-Khú tu tập tinh cần

              Đưa đến sung mãn vô ngần

       Do ‘bốn niệm xứ’ chuyên tâm hành trì.

 

(Minh-giải-thoát được viên mãn)

 

          Các Tỷ Kheo !Giác-chi bảy thứ

          Vị Phích-Khú tu tập thế nào ?

              Làm cho sung mãn ra sao ?

       Khiến ‘Minh-giải-thoát’ dồi dào, mãn viên ?

          Các Tỷ Kheo ! Cần chuyên Phích-Khú

          Tu chuyên chú về Niệm-giác-chi

              Liên hệ đến sự viễn ly

       Và liên hệ đến sự ly tham này,

          Xả ly ngay liên hệ đến diệt.

          Rồi mãi miết tu các giác-chi

              Tuần tự : ‘Trạch-pháp giác-chi’,

      ‘Giác-chi tinh-tấn’, ‘giác-chi hỷ’ này

         ‘Khinh-an giác-chi’ đây đạt cả

         ‘Định giác-chi’ và ‘xả giác-chi’

              Đều liên hệ đến viễn ly,

       Ly tham và diệt đồng thì liên quan

          Hướng xả ly, hoàn toàn tròn đủ.

 

          Các Phích-Khú ! Bảy giác-chi này

              Đã được tu tập như vầy

       Làm cho sung mãn, tràn đầy tịnh thanh,

          Khiến cho Minh-giải-thoát viên mãn

          Từ việc ‘quán hơi thở’ hành trí.  

 

 

              Nghe từ đấng Chánh Biến Tri

       Chúng Tăng hoan hỷ, kiên trì niềm tin ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*   *

 

( Chấm dứt Kinh số 118 :  NHẬP TỨC, XUẤT TỨC NIỆM  –

QUÁN NIỆM HƠI THỞ  –  ÀNÀPÀNASATI  Sutta )

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7754)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8802)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2832)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4354)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2631)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7885)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12495)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8547)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567