Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

45. Tiểu Kinh Pháp Hàn

19/05/202010:21(Xem: 8287)
45. Tiểu Kinh Pháp Hàn

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com



45. Tiểu Kinh PHÁP HÀNH
( Cùladhammasamàdàna s.)
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, đức Thế Tôn Thiện Thệ      
          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ  trú qua
              Tinh Xá Chê-Tá-Va-Na  (1)
       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka (1) cúng dường
        ( Cấp-Cô-Độc gọi thường như thế ).
 
          Đấng Thiện Thệ gọi các Tỷ Kheo :
 
        – “ Hãy tác ý, các Tỷ Kheo ! ”.
       Tất cả Phích-Khú (2) ấy đều vâng theo.
 
    – “ Các Tỷ Kheo ! Pháp hành bốn loại
          Sao là bốn ?  Có loại pháp hành
          -  Hiện tại an lạc thấy rành
       Tương lai khổ báo sẵn dành cho y.
       -  Có pháp hành ở thì hiện tại
          Đau khổ, tương lai lại khổ đau.
           -  Có pháp hành hiện khổ đau
       Quả báo an lạc về sau sẵn dành.
       -  Có pháp hành hiện nay an lạc
Tương lai cũng an lạc, tốt lành.
 
        * “ Thế nào là loại pháp hành   
       Hiện tại lạc, tương lai thành khổ đau ”?
     ____________________________
( ): Kỳ Viên Tinh Xá – Jetavanavihàra ( tại Thành Xá-Vệ -Savatthi)
      do Trưởng-giả Cấp-Cô- Độc – Anathapindika dâng cúng .
(2) :  Bhikkhu – được phiên âm là Tỷ Kheo hay Tỳ Khưu .  
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 45 :  PHÁP HÀNH   *MLH  – 116
 
          Các Tỷ Kheo ! Nơi nào sở dĩ  
          Một số vị Sa-môn thuyết ra,
              Hoặc có sở kiến như là :
      ‘Không có tội lỗi trong tà dục đây’.
 
          Những vị này đắm trong các dục
          Cứ liên tục hoan lạc mê man
              Với các cô gái lang thang
       Tóc quăn, sắc đẹp, điểm trang mỹ miều.
          Họ nói liều : ‘Sao các Tôn-giả
          Bà-la-môn và cả Sa-môn
              Thấy sự sợ hãi dập dồn
      Tương lai các dục héo mòn’. Hoặc như
          Nói đến sự đoạn trừ các dục,
          Nên hiểu biết về dục như vầy.
              Họ nghĩ rằng : ‘Khoái lạc thay !
       Sự xúc chạm với bàn tay các nàng
          Da có lông mịn màng trắng bóc,
          Thật trẻ đẹp, làn tóc mượt mà’.
 
               Sau khi họ đã trải qua
       Đắm trong các dục, rồi đà mạng chung
          Phải đọa sanh khốn cùng cõi dữ
          Nơi ác thú, địa ngục sâu dày
              Ở đây, họ cảm thọ ngay
       Cảm giác thống khổ, đọa đày khổ đau.
          Họ liền nói như sau : ‘Nghĩ kỹ
          Các Sa-môn, Phạm-chí các ngài
              Thấy sự sợ hãi tương lai
       Của các dục, nói phải ngay diệt liền,
  Hoặc nêu lên hiểu biết về dục.
          Nhưng chúng ta do dục làm nhân
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 45 :  PHÁP HÀNH   *MLH  – 117
 
              Dục làm duyên, cảm thọ phần
       Cảm giác khốc liệt vô ngần khổ đau’.           
          Các Tỷ Kheo ! Nói vào ví dụ
          Cuối tháng hạ, vào vụ nóng đều
              Một bẹ hạt giống dây leo
       Nứt ra, một hạt rơi vèo xuống ngay
          Dưới gốc cây Sa-La ẩn trú.
          Các Phích-Khú ! Các vị thọ thần
              Trên cây Sa-La ẩn thân
       Run rẩy, hoảng hốt, sợ nhân giống này
        ( Sẽ phát triển, các dây chằng chịt
          Bám vào thân làm chết Sa-la )
 
              Bạn bè, thân quyến ruột rà
       Của thọ thần ấy, như là thần cây,
          Thần vườn hay thần rừng, dược thảo,
          Hội họp lại rồi bảo thần cây
              Để an ủi : ‘Tôn-giả này !
       Chớ sợ hãi, hạt giống đây còn tùy :
          Bị khổng tước nuốt đi, mai một
          Bị nai ăn, lửa đốt tức thì,
              Bị người làm rừng nhặt đi
       Bị mối ăn ; không cách chi nẩy mầm’.
 
          Nhưng âm thầm diễn ra trái ngược
          Chim khổng tước đã không nuốt phăng,
              Lửa không đốt, nai không ăn,
       Người không nhặt, mối không ăn hạt này.
           Được mưa lớn, nẩy ngay mầm giống
           Thành dây leo, bám sống cây trồng
               Dây leo mềm mại, có lông
Bám Sa-la ấy chặt không thể rời.
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 45 :  PHÁP HÀNH   *MLH  – 118
 
          Thọ thần nơi cây Sa-la ấy 
          Lại cảm thấy thích thú, hân hoan
              Khi dây leo mềm mơn man
       Suy nghĩ : ‘Không hiểu các hàng thần cây 
          Thân hữu hay bà con huyết thống
          Hội họp lại, chủ động nói ra
              An ủi ta ; giả thuyết là
       Hạt giống có thể hoại qua, như là :
          Chim, nai ăn hay là lửa đốt,
          Bị thui chột không thể nẩy mầm,
        Loài mối đục ăn âm thầm…
       Toàn chuyện đáng sợ, sóng ngầm hãi kinh.
          Nhưng tự mình cảm giác xúc chạm
          Dây leo bám, khoái lạc vô cùng,
              Dây leo mềm mại, trẻ trung
       Có lông tơ chạm quấn xung quanh mình’.
 
          Một thời gian, tình hình diễn tiến
          Khi dây leo phát triển, bao trùm
              Làm thành tàn che lùm sùm
       Ở dưới phát triển thành lùm bụi ra.
          Các cành cây Sa-la bị phủ
Bị bóp nghẹt, thúc thủ chết dần.
              Lúc ấy các vị thọ thần
       Sa-la thường trú, nhớ lần trước đây :
          Do không thể thấy ngay hiểm họa
          Nhân hạt giống, kết quả dây leo
              Sống gửi, Sa-la bám đeo
       Hại cây chết, lại hại theo thọ thần.
          Nay chúng ta muôn phần thống khổ
          Rất khốc liệt, không chỗ dựa theo’.
 
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 45 :  PHÁP HÀNH   *MLH  – 119
 
              Cũng vậy, này các Tỷ Kheo !
       Sa-môn, Phạm-chí nào đeo bám vào
          Với sở kiến biết bao lầm lạc :
         ‘Không tội lỗi trong các dục này’
              Đắm mình trong các dục đây
       Say mê, khoái lạc đêm ngày truy hoan
          Với những gái lang thang tóc quắn
   Hoan lạc và mê mẩn khôn cùng.
              Đến khi thân hoại mạng chung
       Đọa sinh cõi dữ muôn trùng khổ đau.
          Các Tỷ Kheo ! Được mau gọi đó
         ‘Pháp hành có hiện tại lạc an,
              Tương lai quả khổ vô vàn’.
 
 * “ Pháp hành nào hiện tại đang khổ đầy
          Và quả báo tương lai cũng khổ ”?
          Các Tỷ Kheo ! Đã có những ngưởi
              Thực hành cách thức mọi thời
       Những phương khổ hạnh khác đời như sau :
 
          Sống lõa thể với bao phóng túng
          Các lễ nghi họ cũng bỏ trôi
              Hoặc cách đứng ăn không ngồi
       Đứng đại tiểu tiện, ăn rồi liếm tay
          Đi khất thực, đứng ngay chẳng bước
          Không nhận thức ăn trước khi đi
              Không nhận thức ăn riêng chi
       Mời ăn không nhận, sợ vì dành riêng
          Hai người đang hiện tiền ăn uống
          Một người cho không muốn nhận quà
              Không nhận từ những đàn bà
       Đang cho con bú hoặc là có thai
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 45 :  PHÁP HÀNH   *MLH  –120
 
          Sợ đứa trẻ thiệt thòi dinh dưỡng
          Không nhận phần từ hướng đi quyên
              Khi có nạn đói trong miền
       Sợ rằng xén bớt phần tuyền nạn nhân     
          Không nhận, sợ mất phần gia súc
          Khi chó, mèo… đang chực thức ăn
              Không ăn cá, thịt  lộn chen
       Không uống rượu nấu, rượu men sa đà
          Chỉ nhận ăn mỗi nhà một miếng
         Hoặc hai nhà hai miếng, dùng qua
              Hoặc nhận ăn tại bảy nhà
       Chỉ ăn bảy miếng cho qua đói lòng
          Hoặc nuôi sống chỉ mong một bát
          Hoặc hai bát… bảy bát thí phần
              Chỉ ăn mỗi ngày một lần
       Hai ngày một bữa, một tuần mới ăn
          Hoặc vị ấy tinh cần tiết chế
    Nửa tháng lệ một bữa ăn qua.
 
              Hoặc họ thực hành trải qua
       Những phương khổ hạnh thực là tối đa :
          Thức ăn họ chỉ là cỏ lúa
          Ăn hạt cải, lúa tắc, bột vừng
              Ăn gạo xấu, ăn trấu dừng
       Ăn nước bột gạo, măng rừng, rễ cây
          Ăn phân bò, trái cây rụng xuống
          Ăn da vụn, ăn cỏ qua ngày
              Vị ấy mặc áo thô gai
       Hoặc vải liệm xác ở ngoài tha ma
          Ti-ta-ca vỏ cây làm áo
          Da sơn dương, phấn tảo mặc thường,
 
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 45 :  PHÁP HÀNH   *MLH  – 121
 
              Bện bằng nhiều mảnh sơn dương
       Hoặc áo bằng cỏ cát tường kết chung
          Áo vỏ cây, áo từng miếng gỗ
          Áo tóc bện gia cố thành mền                 
              Đuôi ngựa bện thành áo bền
       Không cạo râu tóc, nhổ liền tóc râu
          Hạnh không ngồi, bao lâu vẫn đứng
          Ngồi chò hỏ, giữ vững kiểu này
              Thường nằm ngủ trên đống gai
       Bạ đâu nằm đó, người đầy bụi dơ
          Ngủ ngoài trời, vật vờ nằm đất
          Ăn uế vật, nước tiểu trâu bò
              Ăn phân bò, ăn đất tro
       Nước lạnh không uống, tắm cho ba lần
          Xuống dưới nước đầm thân tắm gội
          Mong sạch tội, để được khoan dung.
              Sau khi thân hoại mạng chung
       Đọa sinh cõi dữ muôn trùng khổ đau.
 
          Các Tỷ Kheo ! Thuộc vào loại đó
          Pháp hành có hiện tại khổ đau
     Tương lai quả cũng khổ đau.
 
 * “ Trong hiện tại, pháp hành nào khổ đau   
          Tương lai sau quả báo an lạc ”? 
          Các Tỷ Kheo ! Mặt khác nói qua :
              Có người tự tánh sinh ra
       Quá nặng tham ái hoặc là hận sân,
          Hoặc quá nặng về phần si ám
          Cảm thọ luôn đeo bám khư khư
              Cảm giác khổ& ưu ; do từ
       Tham ái, sân hận hoặc từ si mê
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 45 :  PHÁP HÀNH   *MLH  – 122
 
          Với khổ & ưu mọi bề như thế
          Với mặt để nước mắt tuôn tràn
              Những người ấy luôn khóc than
       Nhưng rồi suy gẫm, tìm đàng từ ly,
          Hành phạm hạnh, mọi thì trong sạch
          Sống thanh bạch ; sau đó mạng chung
              Được sinh thiện thú, Thiên cung
       Hoặc tái sinh lại, vô cùng thảnh thơi.
          Là pháp hành hiện thời khổ não
 Nhưng quả báo an lạc tương lai.
 
              Này các Tỷ Kheo ! Lành thay !   
 * “ Pháp hành hiện lạc, tương lai an lành ”.
          Có những người khi sanh có sẵn
          Tự tánh không quá nặng tham, sân
              Không quá nặng si mê trần
       Không luôn cảm thọ những phần trải qua
          Cảm giác là khổ & ưu, do bởi  
          Tham, sân hận và bởi si mê
              Vị ấy ly dục hướng về,
       Các pháp bất thiện nhất tề xả ly,
          Chứng tức thì, trú Thiền thứ nhất
          Trạng thái thật hỷ lạc âm thầm
              Do ly dục ; có tứ, tầm,
 
       Rồi vị Phích-Khú diệt tầm, tứ đây,
          Chứng, trú ngay Nhị Thiền vô ngại
          Một trạng thái hỷ do định sanh
              Không tầm không tứ, tịnh thanh
       Và nội tĩnh nhất tâm – danh như vầy.
          Rồi vị này ly hỷ trú xả
          Chánh niệm tỉnh giác, quá an nhiên
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 45 :  PHÁP HÀNH   *MLH  –123
 
              Thì thân cảm lạc thọ liền
      ‘Xả niệm lạc trú’ – Thánh hiền gọi tên,
Chứng, trú nên Tam Thiền tự tại.
 
          Vị ấy lại xả lạc & khổ này
              Diệt hỷ ưu, thọ trước đây
       Chứng, an trú Tứ Thiền ngay chín muồi,
          Không khổ & vui, xả niệm thanh tịnh. 
 
          Và nhất định sau khi mạng chung
              Được sinh thiện thú, Thiên cung
       Hoặc tái sinh lại, vô cùng sướng thay !
          Các Tỷ Kheo ! Như vầy được gọi
         ‘Pháp hành hiện có mọi lạc an,
              Tương lai cũng sẽ lạc an’.
       Pháp hành bốn loại rõ ràng là đây ”.
 
          Nghe Thế Tôn trình bày viên mãn
          Thuyết giảng pháp trong sáng rỡ ràng,
              Chư Tỷ Kheo trong đạo tràng
       Hoan hỷ tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
 
 
 
*
*     *
 
 
(  Chấm dứt  Kinh số 45  :  Tiểu Kinh PHÁP HÀNH
CÙLADHAMMASAMÀDÀNA   Sutta  )
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7755)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8802)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2833)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4354)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2631)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7885)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12496)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8548)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567