Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ánh trăng & mùa Xuân trong bài thơ Tanka Nhật Bản

13/01/201201:40(Xem: 17287)
Ánh trăng & mùa Xuân trong bài thơ Tanka Nhật Bản

duc-phat-030

Ánh trăng & mùa Xuân trong bài thơ Tanka Nhật Bản

Yasurani Kawabata - Nguyễn Văn Nho biên dịch



Lời người dịch:

Phần trích dịch dưới đây nằm trongđoạn đầu của bài diễn văn nhận giải Nobel văn chương của Yasunari Kawabata, đọc tại Hàn Lâm viện Thụy Điển vào tháng 12 năm 1968,với nhan đề “Japan, the Beautiful andMyself”.(1)Tanka (đoản ca: 短 歌), là thể loại thơ độc đáo của Nhật Bản, gồm 31 âm tiết. Kawabata muốn giới thiệu những bài thơ này để nêu bật tinh thần Nhật Bản về thơ catrong bài diễn văn của mình. Người dịch những bài thơ này đã mạo muội phóng tácthành những câu thơ mang hơi thở Việt Nam. Rõ ràng đó là việc làm dễ mắcphải sai lầm, một phần, vì qua ngôn ngữ thơ ca, dịch phẩm phải giống như việctái tạo một sản phẩm mà điều may mắn hy vọng đạt được là tinh thần cốt tủy củasản phẩm cũ không sai lệch là bao, phần khác, người dịch đã chuyển từ bản dịchAnh ngữ chứ không phải từ nguyên ngữ Nhật Bản. Đó là lý do người dịch viếtnhững lời này, với niềm mong mỏi bạn đọc bỏ qua cho những sai lầm lệch lạc, vàđón nhận bài viết này nhẹ nhàng như cơn gió nhẹ thoảng qua, không ảnh hưởng gìđến ai cả.

Mỗi lần có ai đó nhờ tôi viết vài câu thư pháp, tôithường viết hai bài thơ sau đây, bài thứ nhất của tu sĩ Dogen (1200-1253), màông ta gọi là Bản lai diện mục (Innate Spirit), và bài thứ hai, của tu sĩ Myoe(1173-1232).
“In the spring, cherry blossoms, in the summer thecuckoo.
In autumn the moon, and in winter the snow, clear, cold”.(2)
Mùa xuân đỏ thắm anh đào
Tiếng cu bàng bạc điệu chào, hạ ơi!
Trăng thu trong sáng gọi mời
Tuyết đông lành lạnh tinh khôi bốn bề.
“The winter moon comes from the clouds to keep mecompany.
The wind is piercing, the snow is cold”(3).
Trăng ngời ngọc sau làn mây hiển hiện
Để cùng tôi qua mộng thực đôi bờ
Ngọn gió buốt như hòa trong thớ thịt
Trắng mênh mang màu tuyết lạnh hoang sơ.

Trước bài thứ hai, Myoe ghi thêm những dòng sau,như một lời giải thích cho ý nghĩa chủ đạo của bài: “Vào đêm 12 tháng 12 năm1224, mặt trăng đang ẩn khuất sau làn mây. Tôi bước vào điện Kakyu để ngồithiền. Lúc nửa đêm, tôi ngừng thiền định, bước ra ngoài sảnh điện để đi xuốngtầng dưới, tôi bắt gặp ánh trăng hiện ra sau màn mây và lan tỏa bàng bạc trêntuyết trắng. Và ánh trăng kia đối với tôi như một bạn đồng hành, đến nỗi, tiếngchó sói tru lên dưới thung lũng cũng chẳng hề làm tôi khiếp sợ. Rồi lúc sau,tôi rời hạ điện bước ra ngoài, ánh trăng lại khuất vào trong mây. Khi tiếngchuông ngân báo hiệu giờ cầu kinh lúc tàn đêm, tôi lại đi lên sảnh điện, ánhtrăng đã dõi theo tôi trên con đường tôi bước. Tôi lại ngồi thiền, mặt trăngnhư đuổi theo mây để sau cùngchìm khuất trong ánh mặt trời đang hồng lên cho ngày mới, mặc dầu vậy, dườngnhư với tôi, ánh trăng kia vẫn còn theo tôi trong tâm tưởng như một bạn đồnghành bí mật”.

Sau bài thơ đã dẫn ở trên, là bài thơ sau, mà cóthể đoạn cuối những lời dẫn của Myoe đã cho thấy rằng ẩn ngữ một vầng trăng đãkhuất dần sau núi kia vẫn còn ngân vang trong lòng tác giả:

“I shall go behind the mountain. Go there too, Omoon.
Night after night we shall keep each othercompany.”(4)
Ta sẽ về bên kia núi, Trăng ơi!
Em cũng về theo, mộng song hành
Đêm lại rồi đêm ta sánh bước,
Em là ta hay ta lại là em?

Một lần khác, có thể là sau những thời khắc thiềnđịnh, hoặc khi bước đi lúc trời rạng sáng trên đường về chánh điện, Myoe đãviết thế này: “Vừa mở đôi mắt ra sau thời gian thiền định, tôi đã bắt gặp vầngtrăng lúc trời tảng sáng, ánh trăng dìu dịu qua cửa sổ. Tôi cảm thấy ánh sángdường như đang ngập tràn đến cả những góc phần tăm tối nhất của tâm hồn mình,và dường như ánh sáng đó đến từ ánh trăngmuôn thuở”. Theo đó, Myoe đã viết bài thơ:

“My heart shines, a pure expanse of light;
And no doubt the moon will think the light itsown.”(5)
Sáng cả lòng ta dòng tinh khiết
Hay chính là trăng nhập cõi hồn?

Myoe thường được mệnh danh là thi sĩ của ánh trăng,bởi những dòng thơ trăng thanh thoát, bởi những dòng thơ như sự thảng thốt diệukì, như tiếng kêu ngây thơ tự nhiên bật ra tâm hồn, như sự hứng khởi tuôn tràokhông mục đích:

“Bright, bright, and bright, bright, bright, andbright, bright.
Bright and bright, bright, and bright, brightmoon.”(6)

Trong ba bài thơ về ánh trăng, từ nửa khuya đến lúctrời rạng sáng, Myoe đã tuân thủ khuynh hướng thi pháp mà Saigyo đã sử dụng.Saigyo cũng là một thiền sư - thi sĩ, người đã tại thế vào khoảng 1118 đến1190, ông đã nói: “Dù tôi có làm thơchăng nữa, tôi vẫn không nghĩ về chúng như là những bài thơ tôi đã soạn”.(7) Trong bamươi mốt âm tiết, ông đã tạo nên một bài thơ, trung thực, trực chỉ vào thực tạisinh động, dường như thể ông với trăng là một, chứ không đơn thuần là “đồnghành với trăng”. Nhìn trăng, ông trở nêntrăng, và trăng cũng chính là ông khi nó là đối tượng được ngắm nhìn. Ông chìmvào thiên nhiên, và ông trở thành một cùng nhiên giới. Ánh sáng từ trái timtrong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gầnrạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng dù ngày lên hửngđỏ một góc trời. Như ta đã thấy tronglời dẫn của Myoe trước bài thơ nói trên, ở đó, ánh trăng mùa đông đã trở thànhbạn đồng hành, nó chính là tâm của vị thiền sư, một ánh trăng đã từ sau làn mâytỏa sáng rồi chìm vào bầu trời tôn giáo và triết học, vĩnh viễn, ánh trăng vàthiền sư đã lan tỏa vào nhau trong một hòa điệu tuyệt vời, mà bài thơ bất quáchỉ như một bật thốt tình cờ để diễn tả nên điều rất khó diễn bày.

Đó cũng là lý do mà tôi nghĩ đến bài này đầu tiênkhi có ai nhờ viết cho một bức thư pháp, với tôi, cảm xúc của bài thơ thật nhẹnhàng phiêu hốt, một niềm đam mê thật bay bổng khinh an. Ánh trăng kia giữa bầutrời đông tuyết, nấp sau mây rồi hé lộ dần, rồi lại núp sau mây và lại hiểnbày, tỏa sáng trên mỗi bước chân ta, khiến ta không còn sợ sói dữ. Phải chăng,hỡi trăng ơi, gió chìm vào trong em, gió lạnh mơn man em và tuyết trắng khônglàm em buốt giá? Tôi chọn bài thơ này, quả thực, tôi đã chọn một bài thơ ấmnồng, sâu lắng, bài thơ của niềm đam mê thanh thoát, trong tĩnh lặng khôn dò,trong thảng thốt suy tư ăm ắp cả một tinh thần Nhật Bản. Tiến sĩ Yashiro Yukio,một nhà nghiên cứu nổi tiếng về nhà danh họa Botticelli(8), một học giả uyên thâm về nghệ thuật từ cổ chí kimvà từ Đông sang Tây, đã đúc kết tinh thần nghệ thuật Nhật Bản đặc trưng qua chỉmột câu thơ: “Ta nghĩ đến bạn bè ta mỗi khi nhìn hoa, ngắm tuyết, ngó trăngthanh”.

Mỗi khi nhìn vẻ đẹp tuyệt vời của tuyết, mỗi lầnthưởng ngoạn ánh trăng tròn vời vợi, hay say đắm trước vẻ xinh tươi của nhữngkhóm anh đào, mỗi khi để lòng chìmtrong các bức họa hay bị đánh thức bởi vẻ mỹ miều của bốn mùa thay sắc, tathường nghĩ đến những người gần ta nhất, những kẻ thương yêu, và trong ta khaokhát niềm ước mong chia sẻ cảm giác hoan lạc này. Chính kích thích của mỹ cảmđã đánh thức các cảm xúc trong ta, đánh thức niềm khát khao đồng hành, khátkhao những mối chân tình huynh đệ, và khi đó, từ “bằng hữu” (comrade) trở thànhđặc trưng đầy ý nghĩa của hai tiếng “con người” (human being). Tuyết, trăng,những khóm hoa, những từ ngữ diễn tả bốn mùa, trong truyền thống Nhật Bản, đólà những từ ngữ hòa quyện vào nhau để nêu bật lên vẻ đẹp muôn thuở của núi,sông, cây cỏ, để diễn đạt thiên nhiên sâu lắng và muôn hồng nghìn tía, cũng nhưdiễn đạt cảm xúc của con người khi chiêm nghiệm.

Cái tinh thần đó, cái tinh thần khát khao tìnhhuynh đệ khi đi trong tuyết, khi đứng dưới trăng, khi ngắm nhìn hoa ngàn cỏnội, cũng chính là tinh thần căn bản trong nghi thức uống trà. Trong cảnh quantươi đẹp thích hợp nào đó, bằng hữu gặp nhau, ngồi bên tách trà, hòa điệu mộtniềm giao cảm trước đất trời vạn đại, và động tháithưởng trà kia được nâng lên thành nghi thức, mà như người ta nói, ấy là Tràđạo. Tiện đây, tôi muốn đề cập đến tiểu thuyết Ngàn Cánh Hạc(ThousandCranes) của mình, một cuốn tiểu thuyết thường được bạn đọc hiểu sai là tôi muốnngợi ca vẻ đẹp hình thức và tinh thần của nghi thức uống trà đó.

Nhưng ngược lại, tôi muốn diễn đạt mối hoài nghicũng như cảnh báo mọi người về tính thông tục hợm người mà các nghi thức uốngtrà hiện nay đang sa ngã.

“In the spring, cherry blossoms, in the summer thecuckoo.
In autumn the full moon, in winter the snow, clear,cold”.
Mùa Xuân đỏ thắm anh đào
Tiếng cu bàng bạc điệu chào, hạ ơi!
Trăng thu trong sáng gọi mời
Tuyết đông lành lạnh tinh khôi bốn bề

Một ai đó sẽ nghĩ rằng trong bài thơ đó của Dogen,đơn giản chỉ là sự miêu tả thiên nhiên một cách thông thường, xoàng xĩnh, mộtsự kể lể tầm thường bốn mùa thay nhau nối tiếp. Ai đó cũng có thể nghĩ rằng thơgì như vậy mà cũng là thơ, chẳng có thơ có mộng gì với những từ bình thườngghép nhau như thế. Tuy nhiên, ta hãy nghe một bài tương tự viết lúc lâm chungcủa Thiền sư Ryokan (1758-1831):

“What shall be my legacy?
The blossoms of spring,
The cuckoo in the hills, the leaves of autumn”.(9)
Em thừa kế giùm tôi ngàn hoa thắm
Tiếng chim kêu đồi mộng thuở ban sơ
Tôi để lại cho trần gian muôn thuở
Lá vàng thu, những khoảnh khắc không ngờ!

Ở bài thơ này, cũng tương tự bài của Dogen, nhữngảnh hình và từ ngữ bình thường nhất đã hòa quyện trong nhau một cách trôi chảy,mà đặc biệt, nó đã truyền cho ta tinh thần cốt tủy của Nhật Bản. Bài thơ vừatrích dẫn trên là bài thơ cuối cùng trong cuộc đời của Thiền sư - Thi sĩ Ryokan.

“A long, misty day in spring:
I saw it to a close, playing ball with thechildren.
The breeze is fresh, the moon is clear.
Together let us dance the night away, in what isleft of old age.
It is not that I wish to have none of the world,
It is that I am better at the pleasure enjoyedalone”.(10)
Tôi đang đùa với trẻ con
Trời sương trùm phủ lối mòn cỏ xuân
Trăng thanh, gió nhẹ thật gần
Một trời thân thiết, vang ngân giọng đàn
Nhảy đi em, điệu muôn vàn
Tiếng lòng kim cổ, nhạc vàng xưa sau
Rồi nghe đất chuyển muôn màu
Này hương vũ trụ bên cầu cô đơn
Vòng tay ôm trọn xuyên sơn
Một mình chiêm bái nguồn cơn vĩnh hằng!

(1)Literature 1968-1980, Editor-in-Charge ToreFrängsmyr, Editor Sture Allén, World Scientific Publishing Co., Singapore,1993.

(2) Vào mùa xuân, những khóm anh đào, tiếng cu gù mùa hạ. Mùathu, ánh trăng trong, và mùa đông, tuyết lạnh.

(3)“Trăng mùa đông đến từ sau những đám mây để đồng hành cùngtôi/ Gió thổi buốt, và tuyết lạnh”.

(4)“Tôi sẽ về sau núi, em cũng thế trăng ơi./ Rồi từng đêm,ta sẽ giữ bước song hành”.

(5)“Tâm hồn tôi tỏa sáng, thứ ánh sáng lan rộng thuần khiết;Và không còn hồ nghi gì nữa, trăng cũng nghĩ rằng đó chính là ánh sáng củachính mình”.

(6)“Sáng, sáng, ôi sáng, sáng, sáng, và sáng, sáng/Sáng, cứ sáng hoài, sáng, sáng và sáng mãi, ánh trăng!”.

(7)“Though I compose poetry, I do not think of it as composedpoetry”.

(8)Botticelli (1445 - 1507), họa sĩ nổi tiếng người Ý.

(9)“Di sản của tôi ư? Những khóm hoa mùa Xuân/Chim gùtrên đồi vắng, những chiếc lá thu bay”.

(10)“Một ngày dài mùa xuân đầy sương:

Tôi thấy bầu trời thật gần gũi khi đang chơi cầu cùng con trẻ.

Cơn gió nhẹ trong lành, ánh trăng sáng tỏ.

Ta hãy cùng nhau khiêu vũ suốt đêm thâu, trong điệu múa lời ca từ xa xưađọng lại.

Chẳng phải tôi ao ước cô độc giữa thế giới này, mà chính bởi khi chỉ cònlại một mình, tôi vui thú biết bao trong niềm cô đơn bất tuyệt”.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/01/2012(Xem: 2956)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
18/01/2012(Xem: 8697)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
15/01/2012(Xem: 13818)
Đi cho hết cõi Ta Bà,sống cho trọn kiếp nhân sinh, cuối cùng chúng ta quay đầu về cố quận, điểm không cùng của sanh tử, lằn ranh vô tận của vô minh, khởi đầu và chung cuộc. Mộtsự đối diện gay go, thách đố giữa hai bờ mê ngộ, trên từng đỉnh cao ngút ngàn củagian truân vất vả, với vô thường cận kề nối nhịp, hay trên từng hoang sơ trơ trụituyết sương, nhịp bước cùng ta trong sự hoan hỷ tuyệt cùng?.. Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
09/01/2012(Xem: 5475)
Thoáng chốc mà đã bamươi sáu năm, như ba sáu ngày nhẹ nhàng trôi trên dòng thời gian vô hình vunvút. Cũng một buổi chiều xuân với bầu trời trong vắt, ánh mặt trời rãi màu vàng lốm đốm trong vườn đào đầy thơ mộng này, và cũng dưới cội đào già này, Đông và Xuân đã gặp nhau…
08/01/2012(Xem: 7680)
Người,cũng là muôn loài trong cái thế giới ta bà, vẫn mang tứ khổ của cuộc đời, vẫnphải chịu bao cảnh trầm luân, vẫn phải nỗ lực tu tập để thoát khỏi luân hồi.Tôi cũng thế. Có lúc tôi chịu đớn đau, chịu bao phiền não. Tôi nào thoát đượcchốn trần gian đầy khổ ải...
07/01/2012(Xem: 4747)
Chiều nay, chủ nhật 25/5/2003, dù trời Sydney đổ mưa từng cơn nặng hạt, nhưng vẫn không làm chùn bước người về tham dự buổi phát hành Thi phẩm Giấc mơ Trường Sơn của Thầy Tuệ Sỹ, được long trọng tổ chức tại Trung Tâm Tiếp Tân Crystal Palace, Canley Heights, tiểu bang NSW, Úc Châu.
27/12/2011(Xem: 4731)
Trong việt nam phật giáo sử luận, tập một, khi bàn về sự liên hệ giữa thiền và thi ca, giáo sư Nguyễn Lang viết: “Thi ca không có hình ảnh thì không còn là thi ca nữa, cũng như đi vào lý luận siêu hình thì thiền không còn có thể là thiền nữa.”
07/12/2011(Xem: 2956)
Tôi có thói quen cứ những ngày cuối năm thường thích lật những chồng thư cũ của bạn bè ra đọc lại, thích tìm kiếm dư âm của những tấm chân tình mà các bạn đã ưu ái dành cho tôi. Lá thư của anh vẫn gây cho tôi nhiều bâng khuâng, xúc động và ngậm ngùi nhất!
27/10/2011(Xem: 18239)
Bùi Giáng, Người viết sách với tốc độ kinh hồn
04/10/2011(Xem: 3700)
Vài năm qua trên báo chí và sách vở xuất hiện một số thảo luận về câu niệm (Nam Mô) A Di Đà Phật hay (Nam Mô) A Mi Đà Phật. Có lẽ khởi đầu từ cuốn "Hương Sen Vạn Đức" của HT Thích Trí Tịnh1(2006), và "Ý Nghĩa Hoằng Pháp và Hộ Pháp" của tác giả Diệu Âm - Diệu Ngộ được ghi nhận trong bài viết trên mạng Thư Viện Hoa Sen (21/6/2011). Phần này chú trọng đến sự khác biệt ngữ âm giữa Di (trong A Di Đà Phật) và Mi (trong A Mi Đà Phật) và không đi vào chi tiết các giáo pháp liên hệ cũng như phạm vi tâm linh tín ngưỡng dân gian. Thanh điệu ghi bằng số ngay sau một âm như số 3 trong min3 hay mǐn (giọng Bắc-Kinh hay BK ghi theo hệ thống pīnyīn thông dụng hiện nay), không nên lầm với số ghi phụ chú (superscript) như min3; dấu hoa thị * (hình sao/asterisk) đặt trước một âm tiết để chỉ dạng cổ phục nguyên (reconstructed sound). Hi vọng bài này cho thấy phần nào khuynh hướng ngạc hóa nói riêng, văn hóa ngôn ngữ Phật giáo nói chung đã đóng góp không nhỏ trong quá trình hình thành tiếng Việt hiện đại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]