Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ánh trăng & mùa Xuân trong bài thơ Tanka Nhật Bản

13/01/201201:40(Xem: 13864)
Ánh trăng & mùa Xuân trong bài thơ Tanka Nhật Bản

duc-phat-030

Ánh trăng & mùa Xuân trong bài thơ Tanka Nhật Bản

Yasurani Kawabata - Nguyễn Văn Nho biên dịch



Lời người dịch:

Phần trích dịch dưới đây nằm trongđoạn đầu của bài diễn văn nhận giải Nobel văn chương của Yasunari Kawabata, đọc tại Hàn Lâm viện Thụy Điển vào tháng 12 năm 1968,với nhan đề “Japan, the Beautiful andMyself”.(1)Tanka (đoản ca: 短 歌), là thể loại thơ độc đáo của Nhật Bản, gồm 31 âm tiết. Kawabata muốn giới thiệu những bài thơ này để nêu bật tinh thần Nhật Bản về thơ catrong bài diễn văn của mình. Người dịch những bài thơ này đã mạo muội phóng tácthành những câu thơ mang hơi thở Việt Nam. Rõ ràng đó là việc làm dễ mắcphải sai lầm, một phần, vì qua ngôn ngữ thơ ca, dịch phẩm phải giống như việctái tạo một sản phẩm mà điều may mắn hy vọng đạt được là tinh thần cốt tủy củasản phẩm cũ không sai lệch là bao, phần khác, người dịch đã chuyển từ bản dịchAnh ngữ chứ không phải từ nguyên ngữ Nhật Bản. Đó là lý do người dịch viếtnhững lời này, với niềm mong mỏi bạn đọc bỏ qua cho những sai lầm lệch lạc, vàđón nhận bài viết này nhẹ nhàng như cơn gió nhẹ thoảng qua, không ảnh hưởng gìđến ai cả.

Mỗi lần có ai đó nhờ tôi viết vài câu thư pháp, tôithường viết hai bài thơ sau đây, bài thứ nhất của tu sĩ Dogen (1200-1253), màông ta gọi là Bản lai diện mục (Innate Spirit), và bài thứ hai, của tu sĩ Myoe(1173-1232).
“In the spring, cherry blossoms, in the summer thecuckoo.
In autumn the moon, and in winter the snow, clear, cold”.(2)
Mùa xuân đỏ thắm anh đào
Tiếng cu bàng bạc điệu chào, hạ ơi!
Trăng thu trong sáng gọi mời
Tuyết đông lành lạnh tinh khôi bốn bề.
“The winter moon comes from the clouds to keep mecompany.
The wind is piercing, the snow is cold”(3).
Trăng ngời ngọc sau làn mây hiển hiện
Để cùng tôi qua mộng thực đôi bờ
Ngọn gió buốt như hòa trong thớ thịt
Trắng mênh mang màu tuyết lạnh hoang sơ.

Trước bài thứ hai, Myoe ghi thêm những dòng sau,như một lời giải thích cho ý nghĩa chủ đạo của bài: “Vào đêm 12 tháng 12 năm1224, mặt trăng đang ẩn khuất sau làn mây. Tôi bước vào điện Kakyu để ngồithiền. Lúc nửa đêm, tôi ngừng thiền định, bước ra ngoài sảnh điện để đi xuốngtầng dưới, tôi bắt gặp ánh trăng hiện ra sau màn mây và lan tỏa bàng bạc trêntuyết trắng. Và ánh trăng kia đối với tôi như một bạn đồng hành, đến nỗi, tiếngchó sói tru lên dưới thung lũng cũng chẳng hề làm tôi khiếp sợ. Rồi lúc sau,tôi rời hạ điện bước ra ngoài, ánh trăng lại khuất vào trong mây. Khi tiếngchuông ngân báo hiệu giờ cầu kinh lúc tàn đêm, tôi lại đi lên sảnh điện, ánhtrăng đã dõi theo tôi trên con đường tôi bước. Tôi lại ngồi thiền, mặt trăngnhư đuổi theo mây để sau cùngchìm khuất trong ánh mặt trời đang hồng lên cho ngày mới, mặc dầu vậy, dườngnhư với tôi, ánh trăng kia vẫn còn theo tôi trong tâm tưởng như một bạn đồnghành bí mật”.

Sau bài thơ đã dẫn ở trên, là bài thơ sau, mà cóthể đoạn cuối những lời dẫn của Myoe đã cho thấy rằng ẩn ngữ một vầng trăng đãkhuất dần sau núi kia vẫn còn ngân vang trong lòng tác giả:

“I shall go behind the mountain. Go there too, Omoon.
Night after night we shall keep each othercompany.”(4)
Ta sẽ về bên kia núi, Trăng ơi!
Em cũng về theo, mộng song hành
Đêm lại rồi đêm ta sánh bước,
Em là ta hay ta lại là em?

Một lần khác, có thể là sau những thời khắc thiềnđịnh, hoặc khi bước đi lúc trời rạng sáng trên đường về chánh điện, Myoe đãviết thế này: “Vừa mở đôi mắt ra sau thời gian thiền định, tôi đã bắt gặp vầngtrăng lúc trời tảng sáng, ánh trăng dìu dịu qua cửa sổ. Tôi cảm thấy ánh sángdường như đang ngập tràn đến cả những góc phần tăm tối nhất của tâm hồn mình,và dường như ánh sáng đó đến từ ánh trăngmuôn thuở”. Theo đó, Myoe đã viết bài thơ:

“My heart shines, a pure expanse of light;
And no doubt the moon will think the light itsown.”(5)
Sáng cả lòng ta dòng tinh khiết
Hay chính là trăng nhập cõi hồn?

Myoe thường được mệnh danh là thi sĩ của ánh trăng,bởi những dòng thơ trăng thanh thoát, bởi những dòng thơ như sự thảng thốt diệukì, như tiếng kêu ngây thơ tự nhiên bật ra tâm hồn, như sự hứng khởi tuôn tràokhông mục đích:

“Bright, bright, and bright, bright, bright, andbright, bright.
Bright and bright, bright, and bright, brightmoon.”(6)

Trong ba bài thơ về ánh trăng, từ nửa khuya đến lúctrời rạng sáng, Myoe đã tuân thủ khuynh hướng thi pháp mà Saigyo đã sử dụng.Saigyo cũng là một thiền sư - thi sĩ, người đã tại thế vào khoảng 1118 đến1190, ông đã nói: “Dù tôi có làm thơchăng nữa, tôi vẫn không nghĩ về chúng như là những bài thơ tôi đã soạn”.(7) Trong bamươi mốt âm tiết, ông đã tạo nên một bài thơ, trung thực, trực chỉ vào thực tạisinh động, dường như thể ông với trăng là một, chứ không đơn thuần là “đồnghành với trăng”. Nhìn trăng, ông trở nêntrăng, và trăng cũng chính là ông khi nó là đối tượng được ngắm nhìn. Ông chìmvào thiên nhiên, và ông trở thành một cùng nhiên giới. Ánh sáng từ trái timtrong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gầnrạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng dù ngày lên hửngđỏ một góc trời. Như ta đã thấy tronglời dẫn của Myoe trước bài thơ nói trên, ở đó, ánh trăng mùa đông đã trở thànhbạn đồng hành, nó chính là tâm của vị thiền sư, một ánh trăng đã từ sau làn mâytỏa sáng rồi chìm vào bầu trời tôn giáo và triết học, vĩnh viễn, ánh trăng vàthiền sư đã lan tỏa vào nhau trong một hòa điệu tuyệt vời, mà bài thơ bất quáchỉ như một bật thốt tình cờ để diễn tả nên điều rất khó diễn bày.

Đó cũng là lý do mà tôi nghĩ đến bài này đầu tiênkhi có ai nhờ viết cho một bức thư pháp, với tôi, cảm xúc của bài thơ thật nhẹnhàng phiêu hốt, một niềm đam mê thật bay bổng khinh an. Ánh trăng kia giữa bầutrời đông tuyết, nấp sau mây rồi hé lộ dần, rồi lại núp sau mây và lại hiểnbày, tỏa sáng trên mỗi bước chân ta, khiến ta không còn sợ sói dữ. Phải chăng,hỡi trăng ơi, gió chìm vào trong em, gió lạnh mơn man em và tuyết trắng khônglàm em buốt giá? Tôi chọn bài thơ này, quả thực, tôi đã chọn một bài thơ ấmnồng, sâu lắng, bài thơ của niềm đam mê thanh thoát, trong tĩnh lặng khôn dò,trong thảng thốt suy tư ăm ắp cả một tinh thần Nhật Bản. Tiến sĩ Yashiro Yukio,một nhà nghiên cứu nổi tiếng về nhà danh họa Botticelli(8), một học giả uyên thâm về nghệ thuật từ cổ chí kimvà từ Đông sang Tây, đã đúc kết tinh thần nghệ thuật Nhật Bản đặc trưng qua chỉmột câu thơ: “Ta nghĩ đến bạn bè ta mỗi khi nhìn hoa, ngắm tuyết, ngó trăngthanh”.

Mỗi khi nhìn vẻ đẹp tuyệt vời của tuyết, mỗi lầnthưởng ngoạn ánh trăng tròn vời vợi, hay say đắm trước vẻ xinh tươi của nhữngkhóm anh đào, mỗi khi để lòng chìmtrong các bức họa hay bị đánh thức bởi vẻ mỹ miều của bốn mùa thay sắc, tathường nghĩ đến những người gần ta nhất, những kẻ thương yêu, và trong ta khaokhát niềm ước mong chia sẻ cảm giác hoan lạc này. Chính kích thích của mỹ cảmđã đánh thức các cảm xúc trong ta, đánh thức niềm khát khao đồng hành, khátkhao những mối chân tình huynh đệ, và khi đó, từ “bằng hữu” (comrade) trở thànhđặc trưng đầy ý nghĩa của hai tiếng “con người” (human being). Tuyết, trăng,những khóm hoa, những từ ngữ diễn tả bốn mùa, trong truyền thống Nhật Bản, đólà những từ ngữ hòa quyện vào nhau để nêu bật lên vẻ đẹp muôn thuở của núi,sông, cây cỏ, để diễn đạt thiên nhiên sâu lắng và muôn hồng nghìn tía, cũng nhưdiễn đạt cảm xúc của con người khi chiêm nghiệm.

Cái tinh thần đó, cái tinh thần khát khao tìnhhuynh đệ khi đi trong tuyết, khi đứng dưới trăng, khi ngắm nhìn hoa ngàn cỏnội, cũng chính là tinh thần căn bản trong nghi thức uống trà. Trong cảnh quantươi đẹp thích hợp nào đó, bằng hữu gặp nhau, ngồi bên tách trà, hòa điệu mộtniềm giao cảm trước đất trời vạn đại, và động tháithưởng trà kia được nâng lên thành nghi thức, mà như người ta nói, ấy là Tràđạo. Tiện đây, tôi muốn đề cập đến tiểu thuyết Ngàn Cánh Hạc(ThousandCranes) của mình, một cuốn tiểu thuyết thường được bạn đọc hiểu sai là tôi muốnngợi ca vẻ đẹp hình thức và tinh thần của nghi thức uống trà đó.

Nhưng ngược lại, tôi muốn diễn đạt mối hoài nghicũng như cảnh báo mọi người về tính thông tục hợm người mà các nghi thức uốngtrà hiện nay đang sa ngã.

“In the spring, cherry blossoms, in the summer thecuckoo.
In autumn the full moon, in winter the snow, clear,cold”.
Mùa Xuân đỏ thắm anh đào
Tiếng cu bàng bạc điệu chào, hạ ơi!
Trăng thu trong sáng gọi mời
Tuyết đông lành lạnh tinh khôi bốn bề

Một ai đó sẽ nghĩ rằng trong bài thơ đó của Dogen,đơn giản chỉ là sự miêu tả thiên nhiên một cách thông thường, xoàng xĩnh, mộtsự kể lể tầm thường bốn mùa thay nhau nối tiếp. Ai đó cũng có thể nghĩ rằng thơgì như vậy mà cũng là thơ, chẳng có thơ có mộng gì với những từ bình thườngghép nhau như thế. Tuy nhiên, ta hãy nghe một bài tương tự viết lúc lâm chungcủa Thiền sư Ryokan (1758-1831):

“What shall be my legacy?
The blossoms of spring,
The cuckoo in the hills, the leaves of autumn”.(9)
Em thừa kế giùm tôi ngàn hoa thắm
Tiếng chim kêu đồi mộng thuở ban sơ
Tôi để lại cho trần gian muôn thuở
Lá vàng thu, những khoảnh khắc không ngờ!

Ở bài thơ này, cũng tương tự bài của Dogen, nhữngảnh hình và từ ngữ bình thường nhất đã hòa quyện trong nhau một cách trôi chảy,mà đặc biệt, nó đã truyền cho ta tinh thần cốt tủy của Nhật Bản. Bài thơ vừatrích dẫn trên là bài thơ cuối cùng trong cuộc đời của Thiền sư - Thi sĩ Ryokan.

“A long, misty day in spring:
I saw it to a close, playing ball with thechildren.
The breeze is fresh, the moon is clear.
Together let us dance the night away, in what isleft of old age.
It is not that I wish to have none of the world,
It is that I am better at the pleasure enjoyedalone”.(10)
Tôi đang đùa với trẻ con
Trời sương trùm phủ lối mòn cỏ xuân
Trăng thanh, gió nhẹ thật gần
Một trời thân thiết, vang ngân giọng đàn
Nhảy đi em, điệu muôn vàn
Tiếng lòng kim cổ, nhạc vàng xưa sau
Rồi nghe đất chuyển muôn màu
Này hương vũ trụ bên cầu cô đơn
Vòng tay ôm trọn xuyên sơn
Một mình chiêm bái nguồn cơn vĩnh hằng!

(1)Literature 1968-1980, Editor-in-Charge ToreFrängsmyr, Editor Sture Allén, World Scientific Publishing Co., Singapore,1993.

(2) Vào mùa xuân, những khóm anh đào, tiếng cu gù mùa hạ. Mùathu, ánh trăng trong, và mùa đông, tuyết lạnh.

(3)“Trăng mùa đông đến từ sau những đám mây để đồng hành cùngtôi/ Gió thổi buốt, và tuyết lạnh”.

(4)“Tôi sẽ về sau núi, em cũng thế trăng ơi./ Rồi từng đêm,ta sẽ giữ bước song hành”.

(5)“Tâm hồn tôi tỏa sáng, thứ ánh sáng lan rộng thuần khiết;Và không còn hồ nghi gì nữa, trăng cũng nghĩ rằng đó chính là ánh sáng củachính mình”.

(6)“Sáng, sáng, ôi sáng, sáng, sáng, và sáng, sáng/Sáng, cứ sáng hoài, sáng, sáng và sáng mãi, ánh trăng!”.

(7)“Though I compose poetry, I do not think of it as composedpoetry”.

(8)Botticelli (1445 - 1507), họa sĩ nổi tiếng người Ý.

(9)“Di sản của tôi ư? Những khóm hoa mùa Xuân/Chim gùtrên đồi vắng, những chiếc lá thu bay”.

(10)“Một ngày dài mùa xuân đầy sương:

Tôi thấy bầu trời thật gần gũi khi đang chơi cầu cùng con trẻ.

Cơn gió nhẹ trong lành, ánh trăng sáng tỏ.

Ta hãy cùng nhau khiêu vũ suốt đêm thâu, trong điệu múa lời ca từ xa xưađọng lại.

Chẳng phải tôi ao ước cô độc giữa thế giới này, mà chính bởi khi chỉ cònlại một mình, tôi vui thú biết bao trong niềm cô đơn bất tuyệt”.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/04/2024(Xem: 22801)
Phật giáo Việt Nam trong hai thế kỷ cận đại và hiện đại, xuất hiện một số nhân vật đạo hạnh cao vời, kỳ tài xuất chúng, có những cống hiến to lớn, dài lâu cho Đạo pháp và Dân tộc. Ngôn ngữ nhà Thiền xưng tụng những vị này là Bồ-tát, Đại sĩ, Thánh Tăng, hay Long Tượng, là những tôn danh chỉ được tìm thấy trong kinh điển, sử sách, trong lịch sử truyền miệng hoặc trên những bia đá ngàn năm nơi cổ tháp. Triết gia Phạm Công Thiện trong buổi ra mắt tác phẩm “Huyền Thoại Duy Ma Cật” của Hòa thượng Tuệ Sỹ tại thành phố Houston, tiểu bang Texas ngày 04 tháng 11 năm 2007, đã gọi tác giả là “bậc Long Tượng: Tuệ Sỹ” và diễn giải thêm, “Long Tượng là bậc Thầy của cả một dân tộc, nếu chưa muốn nói là bậc Thầy của thế giới.”
26/04/2024(Xem: 542)
Được sự chỉ dạy của TT Thích Nguyên Tạng, Trụ trì Tu Viện Quảng Đức kiêm chủ biên “trang mạng Phật Giáo online Trang nhà Quảng Đức” khi post PDF “Đạo Nghĩa Vuông Tròn “ do Thầy Thích Viên Thành thực hiện và được nhà xuất bản Hồng Đức phát hành, Phật tử Huệ Hương thật vinh hạnh được xem thật kỹ tác phẩm dầy hơn 380 trang kèm theo những hình ảnh theo từng giai đoạn.
26/04/2024(Xem: 258)
Trong chuyến hoằng pháp Âu Mỹ của Hòa Thượng Thích Như Điển từ ngày 12/3/2024 đến 17/3/2024 đến Orange County, chúng tôi- Kiều Mỹ Duyên và Thu Anh- có cơ duyên được phỏng vấn Hòa Thượng tại đài Saigon Radio Hải Ngoại, thành phố Westminster, Orange County, miền Nam California, vào ngày 13/3/2024.
23/04/2024(Xem: 1007)
Năm 2024 là kỷ niệm 60 năm ngày xuất gia lần đầu, Mùng 8 tháng 2 năm Giáp Thìn (21/3/1964), cũng là đánh dấu 20 năm (2004-2024) sống trên một tiểu bang và đất nước “đáng sống”, “hạnh phúc nhất nhì thế giới” đó là Nam Úc. Nghĩ lại mình: “Đệ tử phước cạn nghiệp sâu, Chướng dày huệ mỏng, Nhiễm tâm dễ khởi, Tịnh đức khó thành, Nay xin một lòng, Tin thành sám hối”. Chắc do nghiệp chướng nhiều đời nhiều kiếp đã gieo tạo, nên khi sinh ra, lớn lên đều ở trong môi trường khiêm tốn về vật chất, còn tinh thần cũng nhiều bất hạnh với cuộc đời. Vừa bất hạnh, vừa nghèo, lại không tài giỏi, tưởng rằng sẽ phải chịu nhiều khốn khổ. Nhưng chắc nhờ ảnh hưởng bởi âm đức, có được bản tánh hiền lành, luôn hài hòa trong cuộc sống, sẵn sàng chịu thiệt thòi, cho mọi việc được hanh thông, tốt đẹp. Riêng với tự thân tin tưởng tuyệt đối vào luật nhân quả, thấm nhuần lời dạy của chư Tổ và hiểu được rằng: Phật Pháp rất nhiệm mầu. “Im lặng là vàng. Chịu thiệt là phúc. Nhẫn nhịn là bạc. Giúp người là đức”. Nên hằng
16/04/2024(Xem: 338)
Chiều về trên sông vắng, dòng sông Long Hồ chảy xiết vào mùa nước lũ, bao bọc quanh cái huyện Long Hồ, nằm ở cửa ngõ phía Bắc tỉnh Vĩnh Long, bị Sông Tiền chia cắt thành hai khu vực trông giống như hình một con chó bông nhìn nghiêng. Về vị trí địa lý Long Hồ giáp với nhiều huyện lỵ, tỉnh thành nổi tiếng như: phía Đông giáp huyện Chợ Lách tỉnh Bến Tre, phía Tây giáp thành phố Vĩnh Long và huyện Châu Thành tỉnh Đồng Tháp, phía Nam giáp huyện Tam Bình và phía Bắc giáp 2 huyện Cái Bè và Cai Lậy tỉnh Tiền Giang với ranh giới là Sông Tiền. Một vùng sông nước liên kết như thế là nơi bà Mộng Chi chọn lựa để kinh doanh kiếm tiền trong thời buổi gạo châu củi quế hồi sau giải phóng 75.
15/04/2024(Xem: 890)
Thù thắng thay, hoan hỷ thay, kính cảm niệm, cách điều hành Tu một ngày bát quan trai giới! Mỗi tháng một ngày, cho Phật Tử tại gia Gìn giữ trọn vẹn 8 giới Đức Phật đã chế ra (1) Phật tử còn ràng buộc gia duyên, cần phát nguyện, tinh tấn thực hành trọn vẹn(2) Sẽ tích lũy vô lượng công đức khi thực hiện ! Đặc biệt hôm nay 14/4/2024 nhân dịp chuyến du hành của HT Pháp Tông, trú trì chùa Huyền Không tại cố đô Huế /VN cũng là nhà Sư VIỆT NAM đầu tiên cũng là nhà sư nước ngoài đầu tiên được HOÀNG GIA THÁI LAN cúng dường TƯỚC HIỆU CAO QUÝ - CHAO KHUN (TĂNG CANG ĐỆ NGŨ PHẨM). Tu viện Quảng Đức đã dành cho các đạo hữu khoá tu bát quan trai một sự lợi lạc hoan hỷ vô cùng khi mời được HT Pháp Tông đến với bài pháp thoại chủ đề “Phật học tu tập” và sau đó là những câu hỏi của quý đạo hữu đã trải nghiệm và có chướng ngại gì để cùng Ngài thảo luận. Thù thắng thay, hoan hỷ thay, kính cảm niệm, cách điều hành Tu một ngày bát qua
08/04/2024(Xem: 578)
Tết Thanh Minh không phải là ngày lễ tết lớn trong năm, nhưng nó lại mang đậm nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Tết Thanh Minh cũng không có ngày cố định thời gian, mà là ngày đầu tiên của tiết Thanh minh, nó có thể rơi vào mùng 4 hoặc mùng 5/4 dương lịch (sau khi kết thúc tiết Xuân phân). Tiết Thanh minh là 1 trong 24 tiết khí (theo quan niệm của các nước phương Đông). Tính từ đầu năm trở đi, tiết Thanh minh đứng thứ 5, trong 24 tiết khí sau các tiết Lập xuân, Vũ thủy, Kinh trập, Xuân phân. Vào dịp Tiết Thanh minh trời mát mẻ quang đãng, thường bắt đầu sau ngày Lập Xuân 45 ngày và sau ngày Đông chí 105 ngày). Tiết thanh minh kéo dài khoảng 15 - 16 ngày.
06/04/2024(Xem: 576)
Cách đây khá lâu, tôi đã có lần đọc câu chuyện về những người phạm nhân ở trong trại cải tạo và mối tương quan đồng cảm của những người giám thị trại giam dành cho họ, đó là chia sẻ về Phật pháp, đặc biệt là đối với những tử tội. Hãy tưởng tượng rằng những người đang phải đếm ngược cái chết đến từng ngày, từng giờ khi thân thể vẫn còn đang khỏe mạnh, đó chính là nỗi ám ảnh, sợ hãi khiến tinh thần con người có thể trở nên bấn loạn, mất lý trí và họ trở thành người tâm thần, rồ dại có thể dẫn đến những việc làm tiêu cực, chẳng hạn như nguyền rủa người xung quanh, la hét, thậm chí tự vẫn trước ngày thi hành án.
03/04/2024(Xem: 1021)
Có thể do một sự thần khải, thiên khải, mặc khải hoặc một phép mầu nhiệm, phép linh thiêng, phép huyền bí nào đó, hoặc do đại giác ngộ, đại ân sủng mà toàn thể loài người bỗng dưng trở thành tu sĩ! Thật đại phúc! Vui mừng khôn xiết! Mấy ngàn năm qua với bao lời rao giảng, truyền đạo, răn dạy mà con người vẫn cứ mê luyến vào cuộc sống phàm tục, sinh con đẻ cái, làm giàu, hưởng lạc thú trong cái cõi đời ô trọc này. Nay thì - đúng là ước mơ đã thành hiện thực của các giáo hội. Trong nỗi vui mừng khôn tả đó, việc đầu tiên là phải giải tán ngay phái bộ truyền giáo bởi vì mọi người đã trở thành tu sĩ rồi thì cần gì phải truyền đạo nữa? Tuyên truyền cho ai bây giờ? Còn đất đâu? Còn dân ngoại đạo nữa đâu mà tuyên truyền? Thôi thì cả triệu tấn giấy, hình ảnh, tài liệu, phim ảnh, CD, DVD, Video được đem ra đốt, bao nhiêu đài phát thanh, chương trình truyền hình, website truyền đạo cũng đều dẹp bỏ. Tuy nhiên trong nỗi hân hoan ấy việc chuyển hóa cả một cấu trúc xã hội thế tục vô cùng phức tạp qua
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567