Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

58. Kinh Vương Tử Vô Úy

19/05/202010:26(Xem: 8387)
58. Kinh Vương Tử Vô Úy

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com



58. Kinh VƯƠNG TỬ VÔ ÚY
( Abhayaràjakumàra sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả
          Trú Vương Xá – Rá-Chá-Ga-Ha  (1)
              Trúc Lâm – Vê-Lú-Va-Na  (1)
     ( Được dâng cúng bởi Tần-Bà-Sa-La )   
          Ka-Lanh-Đa-Ka-Ni-Va-Pá  (2)
       ( Chỗ vốn đã nuôi sóc hằng hà ) 
              Vương-tử tên A-Pha-Da  (3)
       Tức là Vô Úy – liền qua đến nhà
          Ni-Ganh-Tha Na-Ta-Pút-Tá  (4)
          Giáo Trưởng Ni-Ganh-Thá phái này.
              Đến nơi liền đảnh lễ Thầy
       Một bên, vương-tử ngồi ngay an hòa.
 
          Ni-Ganh-Tha Na-Ta-Pút-Tá
          Nói với A-Pha-Dá như vầy :
 
        – “ Này Vương-tử ! Hãy đi ngay
       Đến tìm, luận chiến với thầy Sa-Môn
          Gô-Ta-Ma – Tiếng đồn lập tức
          Lan truyền xa : ‘Thần lực cùng là
    __________________________________  
 
(1) : Ràjagaha ( Vương-Xá ) là thủ phủ của vương quốc Magadha 
    – Ma-Kiệt-Đà của vua Tần-Bà-Sa-La và sau là vua A-Xà-Thế .
Tại nơi đây, Vua Bimbisara đã dâng cúng Đức Phật khu rừng trúc của ông để thành lập Trúc Lâm Tinh Xá ( Veluvana Vihàra ).
(2) : Chỗ nuôi sóc Kalandakanivapa .        (3) : Abhaya - Vô Úy .
(4) : Vị Giáo Trưởng của Ni-Kiền-Tử :  Nataputta .
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY   * MLH  –  298
 
              Uy lực ông Gô-Ta-Ma     
       Mà đã bị Vương-tử này công khai
          Luận chiến thật ngang tài ngang sức
          Vương-tử này quả thực tài cao ”.
 
        – “ Thưa Tôn-giả ! Làm thế nào
       Có thể luận chiến nhằm vào ông ta ?
          Sa-môn Gô-Ta-Ma đích thực
          Đầy thần lực, uy lực như vầy ? ”.
 
        – “ Này Vương-tử ! Hãy đi ngay
       Đến Sa-môn đó trình bày sâu xa
          Nêu lên Gô-Ta-Ma câu hỏi : 
         ‘Thế Tôn có thể nói lời mà
              Khi những lời ấy thốt ra
       Khiến những người khác nghe qua, tức thì
          Không ưa gì, lại vừa không thích?’. 
          Nếu Sa-môn họ Thích Ca này
              Đáp : ‘Có thể có như vầy
       Có người không thích lời này của Ta’.
          Hãy vặn lại vị Sa-môn đó :
         ‘Nếu mà có xử sự như vầy
              Có gì sai khác ở đây
       Giữa Thế Tôn với kẻ đầy phàm phu ?
          Kẻ phàm phu nói lời gì đó
Thì cũng có người khác không ưa’.     
 
              Còn nếu khi Vương-tử thưa
       Mà Sa-Môn lại dây dưa nói là :
‘Vương-tử ! Ta đây không thể nói
   Do lời nói, kẻ khác không ưa’.
              Thì Vương-tử hãy nên thưa :
     ‘Nếu xử sự như Ngài vừa nói ra,
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  299
 
          Sao Ngài bảo Đê-Va-Đát-Tá  (1)
          Phải bị đọa đọa-xứ khổ đau
              Một kiếp địa ngục phải vào
       Không thể cứu độ, khổ sầu hằng sa
          Khiến Đề-Bà-Đạt-Đa (1) phẫn nộ
          Không ưa thích, nên cố hại Ngài ?’.
 
              Khi Vương-tử hỏi câu này
       Như hai cái móc, móc ngay họng rồi !
          Nuốt không trôi, nhả ra chẳng được.
          Này Vương-tước ! Ông Gô-Ta-Ma
              Từ hai câu hỏi nêu ra
       Như bị móc, khó nhả ra nuốt vào ! ”.
 
          Bị Giáo Trưởng khích vào tự ngã
          A-Pha-Dá – Vô Úy, vâng lời
              Đứng dậy từ chỗ đã ngồi
       Đảnh lễ Giáo Trưởng, đoạn rời nơi đây.
 
          Đi đến ngay chỗ Phật an trú 
          Đảnh lễ đấng Điều Ngự hiện tiền
    __________________________________  
 
(1) : Devadatta  tức Đề-Bà-Đạt-Đa , hay còn được gọi tắt là Điều-
   Đạt , cũng là vương-tử dòng họ Sakya (Thích Ca ), anh của Tôn
   giả Ananda . Sau khi Phật thành đạo, trở về Thành Ca-Tỳ-La-Vệ
   tế độ bảy vị vương-tử xuất gia, trong đó có Devadatta và Ananda
            Trong 12 năm đầu, ông tu hành rất nghiêm túc và đắc thần
  thông phàm . Nhưng sau đó khi được vua A-Xà-Thế trọng vọng,
  cung dưỡng mọi nhu cầu, ông trở nên ngã mạn và có ý muốn thay
  Phật để lãnh đạo Giáo đoàn .Bị Phật quở trách, ông ôm lòng oán
  hận , nên đã yêu cầu Phật chấp thuận 5 cấm giới do ông đề nghị..
  Đức Phật không chấp nhận , nên ông đã  tách riêng  và dẫn theo
  một  số Tỷ Kheo mới tu thành lập phái riêng . Ông cũng nhiều lần
  tìm mọi cách để hại Phật nhưng không thành.Ông phạm vào“ngũ
  nghịch đại tội” với 2 tội danh : Phá hòa hợp Tăng (chia rẽ Tăng  
Chúng) và làm thân Phật chảy máu . 
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  300
 
              Một bên, vương-tử ngồi yên
       Nhưng vương-tử bỗng nhìn lên mặt trời,
          Suy nghĩ : “ Không phải thời luận chiến,
          Thời gian này không tiện cho ta
              Tranh luận cùng Gô-Ta-Ma
       Ngày mai, luận chiến tại nhà của ta ! ”.
 
          Liền bạch với Phật Đà được rõ :  
 
    – “ Bạch Thế Tôn ! Vào ngọ ngày mai
              Mời đến nhà con thọ trai
       Với ba Phích-Khú (1) cùng Ngài quang lâm ”.      
          Phật im lặng, ý thầm chấp thuận,
          Biết Thế Tôn đã nhận lời rồi  
              Vương-tử liền từ chỗ ngồi
       Đứng dậy đảnh lễ, hướng nơi Phật Đà
   Hữu nhiễu và cáo từ, lui gót.
 
          Mãn canh chót, lộ ánh triêu dương
              Theo lời thỉnh, đấng Pháp Vương
       Đắp y, mang bát an tường, uy nghi
          Ba Tỷ Kheo cùng đi, trực chỉ
          Đến nhà của Vô Úy thọ trai,
              Phật ngồi trên chỗ sẵn bày,
       Vương-tử Vô Úy tự tay dâng liền
          Món thượng vị loại mềm và cứng
          Gia nhân đứng phục vụ ngoài trong.
              Sau khi Thế Tôn dùng xong
       Tay rời khỏi bát. Vui lòng chủ gia
          A-Pha-Da liền ngồi nghiêm cẩn
          Trên ghế thấp kê sẵn một bên
    __________________________________  
 
(1) : Bhikkhu : Tỳ-Khưu  hay  Tỷ-Kheo , nghĩa là vị Khất-sĩ .
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  301
 
              Rồi vương-tử ấy thưa liền :
 – “ Bạch Phật ! Ngài có nói lên những lời
          Do lời ấy, nhiều người không thích,
          Không ưa, nên đối nghịch với Ngài ? ”.
 
        – “ Vương-tử ! Phải chăng ở đây
       Câu hỏi dụng ý hỏi ngay một chiều ? ”.
 
    – “ Bạch Phật ! Điều mà Ngài đáp lại
          Ni-Ganh-Tha họ bại mất rồi ! ”.   
 
        – “ Vương-tử ! Không thể nói chơi ! 
       Vì sao ông nói những lời như trên ? ”.  
 
    – “ Bạch Thế Tôn ! Nêu lên như thế
          Con xin kể cớ sự xảy ra :
              Giáo Trưởng Na-Tá-Pút-Ta
       Bảo con đến gặp Gô-Ta-Ma Ngài
          Để luận chiến với Ngài một trận
          Con ngần ngại, nói thẳng ý mình :
             ‘Sa-Môn Kiều-Đàm cao minh
       Thần lực, uy lực thật tình rất cao
          Làm thế nào mà tôi luận chiến ?’.
 
          Giáo Trưởng bảo thực hiện dễ thôi !     
              Khi gặp vị Kiều-Đàm rồi
       Nêu hai câu hỏi hai thời khác nhau.
          Câu hỏi đầu như con vừa hỏi,
          Nếu Ngài nói rằng có như vầy
              Thì sẽ hỏi vặn lại ngay :
      ‘Xử sự như vậy cũng tày phàm phu,
          Kẻ phàm phu nói lời nào đó
          Thì cũng có người chẳng thích, ưa’. 
              Nếu với câu hỏi con thưa
       Mà câu Ngài đáp thật vừa ý ông
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  302
 
          Là Thế Tôn Ngài không thể nói
          Những lời nói người khác ghét ngay,
              Thì con phải vặn lại vầy :
      ‘Nếu mà xử sự như Ngài nói ra
          Sao Ngài bảo Đê-Va-Đát-Tá   
          Phải bị đọa đọa-xứ khổ đau
              Một kiếp địa ngục phải vào
       Không thể cứu độ, khổ sầu hằng sa
          Khiến Đề-Bà-Đạt-Đa phẫn nộ
          Không ưa thích, nên cố hại Ngài ?’.
 
              Khi Sa-Môn bị hỏi vầy
       Như hai cái móc, móc ngay họng rồi !
          Nuốt không trôi, nhả ra chẳng được.
          Đó chính là mưu chước bày ra
              Của ông Na-Tá-Pút-Ta
       Bảo con luận chiến trải qua với Ngài
          Rồi từ hai câu con hỏi đó
          Như bị móc móc cổ họng ngay ”.
 
              Lúc bấy giờ, tại nơi này
       Có đứa con nít thơ ngây, hồng hào
          Nằm dựa vào đầu gối vương-tử
          Phật bèn hỏi vương-tử như sau :
 
        – “ Này Vương-tử ! Nghĩ thế nào
       Nếu hài-nhi đó, do vào vô tâm
          Của Vương-tử, hoặc nhằm người vú
          Do vô ý nên chú bé này
              Tự thọc vào miệng que dài
       Hay cầm hòn sỏi nuốt ngay vào mồm,
          Vậy Vương-tử đang ôm đứa nhỏ
          Phải làm gì lúc đó tức thì ? ”.
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  303
 
        – “ Bạch Ngài ! Con ôm hài-nhi
       Đưa tay vào miệng, kiên trì móc ra
          Nếu không thể móc ra tức khắc
          Thì tay mặt làm như móc câu
              Tay trái giữ chặt lấy đầu
       Móc cho kỳ được, cho dầu máu ra ”.
 
    – “ Vương-tử ! Lời nói Ta cũng vậy !
 
      *  Như Lai biết lời ấy thuộc phần    
              Không như thật, không như chân
       Không tương ứng mục đích cần nói ra,
          Lời nói khiến người ta không thích
          Sẽ công kích hoặc bất mãn ngay
      Thời Ta không nói lời này.   
 
   *  Lời nào Ta biết có đầy như chân
          Cùng như thật, nhưng phần chứa đựng
          Không tương ứng mục đích cần đưa
              Khiến cho nhiều người không ưa
       Ta không nói, không dây dưa chuyện này.
 
      *  Lời nói nào Như Lai biết rõ
          Là vốn có như thật, như chân
              Tương ứng với mục đích cần
       Dù lời nói đó mọi phần chánh chân
          Nhưng người khác nhiều phần không thích
          Ta biết thời giải thích lời này.
 
          *  Lời không như thật, chẳng ngay
       Không như chân cũng không rày thanh cao
          Không tương ứng nhằm vào mục đích
          Nhiều người không ưa thích, cau mày 
      Thời Ta không nói lời này.
  *  Lời nào Ta biết vốn đầy như chân
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  304
 
          Và như thật, nhưng phần chứa đựng
          Không tương ứng mục đích cần đưa
              Dù những người khác thích, ưa
       Thời Ta không nói và chừa điều đây.
 
      *  Lời biết ngay như chân, như thật
          Mục đích rất tương ứng ở trong
              Khiến nhiều người thích, hài lòng,
       Ta biết giải thích cho thông, hợp thời.
          Vì sao vậy ? Do nơi thương tưởng
          Đối với những hữu tình nơi nơi ”.
 
        – “ Bạch Thế Tôn ! Với những người
       Giòng Sát-Đế-Lỵ, đồng thời Bàn-môn,
          Những Sa-môn, Gia Chủ các vị
          Đều là người có trí, có tài
              Sau khi chuẩn bị sẵn ngay
       Những câu hỏi, đến gặp Ngài hỏi ra :
       “ Bạch Phật Đà ! Chúng con muốn biết
          Ngài có thiệt suy nghĩ trước là :
             ‘Nếu có những ai đến Ta,
       Hỏi Ta điều ấy thì Ta trả lời
 Đúng như điều mà Ta nghĩ trước’,
          Hay câu hỏi đó được trả lời
              Tại chỗ, một cách thảnh thơi ? ”.
 
 – “ Này Vương-tử ! Nghĩ sao nơi chuyện này :
          Nếu có người gặp ngay Vương-tử
          Hỏi Vương-tử quanh chuyện về xe :
             ‘Bộ phận này của cái xe
       Tên gọi của nó trong xe là gì ?’,
          Không hiểu ông có suy nghĩ trước
          Câu trả lời đã được tính rồi ?
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  305
 
              Hay trả lời ngay tức thời ?” .
 
 – “ Bạch Phật ! Con trả lời ngay tức thì
          Điều đó, vì con đây nổi tiếng
          Đánh xe giỏi, phân biện rành về
              Các bộ phận trong cái xe ”.
 
 – “ Cũng vậy, Vương-tử ! Nói về Bàn-môn,
          Sát-Đế-Lỵ, Sa-môn, Gia -chủ,
          Đều có đủ trí tuệ, có tài
              Soạn sẵn câu hỏi như vầy
       Đến Như Lai để hỏi ngay điều này
   Thời Như Lai trả lời tại chỗ.
          Vì sao vậy ? Vì có phạm trù
            ‘Pháp giới’ – Tham-Ma-Tha-Tu  (1)
       Được Ta khéo biết đặc thù sâu xa ”.  
 
          Nghe Phật Đà trình bày tuần tự  
          A-Pha-Da vương-tử thưa ngay :
       – “ Bạch Thế Tôn ! Vi diệu thay ! 
       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm
          Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối
          Đem đèn sáng vào tối như bưng
              Để ai có mắt mở bừng
       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu.
          Cũng như thế, nhiệm mầu Chánh Pháp
          Được Thế Tôn giải đáp, trình bày
              Con xin quy ngưỡng từ nay
       Quy y Đại Giác, nương ngay Pháp mầu,
          Quy y Tăng thanh cao đức cả
          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn
    __________________________________  
 
   (1) :  Pháp giới : Dhammadhatu .
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  306
 
            Mong Thế Tôn nhận cho con
       Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên
          Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục
          Kể từ nay đến lúc mạng chung
              Tín thành nương đấng Đại Hùng
       Thực hành Giáo Pháp muôn trùng cao thâm./-
 
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )
 
 
*  *  *
 
 
 
(  Chấm dứt  Kinh số 58  :VƯƠNG TỬ VÔ ÚY   –  
 ABHAYARÀJAKUMARA Sutta  )
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7755)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8802)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2833)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4354)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2631)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7885)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12497)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8548)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567