Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

135. Tiểu Kinh Nghiệp Phân Biệt

19/05/202011:35(Xem: 9228)
135. Tiểu Kinh Nghiệp Phân Biệt

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


135. Tiểu Kinh NGHIỆP PHÂN BIỆT

(Cùlakammavibhanga sutta)

 

Như vậy, tôi nghe :

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ  – trú qua

              Tinh Xá Chê-Tá-Va-Na

       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka cúng dàng.

 

          Một thanh niên thuộc hàng tuấn nhã

          Su-Pha Tô-Đây-Dá-Pút-Ta   (Subha Todeyyaputta)

              Đến Tinh Xá gặp Phật-Đà,

       Nói lời thăm hỏi ôn hòa, xã giao

          Rồi ngồi vào một bên Điều Ngự

          Thanh niên tự thưa với Phật-Đà :

 

        – “ Thưa Tôn Giả Gô-Ta-Ma !

       Nhân & duyên gì giữa Người và Người đây

          Mà người này được nhiều ưu việt

          Còn người kia hạ liệt, xấu xa ?

              Thưa Tôn-Giả Gô-Ta-Ma !

       Chúng tôi nhận thấy người ta trên đời

          Thì có người đoản thọ, nhiều bệnh,

          Người trường thọ, ít bệnh, đẹp xinh,

              Có người xấu sắc, xấu hình,

       Người quyền thế, kẻ một mình thế cô,

          Người tài sản cứ vô như nước

          Người bần hàn thiếu trước hụt sau

              Có người sang quý, thanh cao

       Người thì hạ liệt, dãi dầu khổ đau,

          Người trí tuệ dồi dào vô kể

          Người trí tuệ yếu kém, thua xa.

              Thưa Tôn Giả Gô-Ta-Ma !

       Do nhân gì, duyên gì mà có ra

          Khiến người ta sai biệt như thế ? ”.

 

    – “ Thanh niên ! Điều vừa kể bởi vì

              Các loài hữu-tình mọi thì

       Là chủ nhân của Nghiệp khi tạo thành,

          Là thừa tự đành rành của Nghiệp,

          Là thai tạng, và Nghiệp cũng là

              Quyến thuộc, điểm tựa của ta

       Hữu-tình các loại phân ra các phần

          Có nghĩa rằng có ưu, có liệt ”.

 

    – “ Tôi quả thiệt không hiểu sâu xa  

              Điều mà Tôn Giả nói ra

       Một cách vắn tắt, thông qua vài hàng,

          Không giải thích rõ ràng chi cả !

          Lành thay ! Nếu Tôn Giả vui lòng

              Thuyết giảng cho tôi được thông

       Để được hiểu rõ nghĩa trong điều này ”.

 

    – “ Này Thanh niên ! Ở đây Ta giảng

          Hãy nghe, đoạn suy nghiệm kỹ càng ”.

 

        – “ Thưa vâng, tôi đã sẵn sàng ”.

 

 – “ Thanh niên ! Có những người toàn sát sanh

          Tay lấm máu, sẵn dành sự sát

          Tâm độc ác, tàn hại, đả thương,

              Không có từ tâm xót thương

       Đối với muôn loại mọi đường chúng sanh.

          Ba nghiệp ấy đạt thành như vậy

          Khi kẻ ấy thân hoại mạng chung

              Bị sanh cõi dữ vô cùng,

       Đọa xứ, địa ngục hãi hùng biết bao !

          Nhưng nếu sau khi chết, kẻ đó

          Không sinh chỗ như đã nói trên

              Mà lại cõi người sinh lên

       Thì bị chết yểu, dựa trên nghiệp này.

 

      *  Nhưng ở đây có người nam, nữ

          Bỏ sát sanh và tự tránh xa

              Sát sanh hại vật, cùng là

       Bỏ trượng, bỏ kiếm, thiết tha quý tàm,

          Có lòng từ, thường làm điều thiện

          Thương xót đến sự sống chúng sinh

              Và đến các loài hữu tình…

       Do nghiệp lành ấy tựu thành thiện căn,

          Sau khi thân chết đi, sinh tới

          Vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời.

              Nếu sau khi chết đi rồi

       Mà không sinh tới những nơi như vầy

          Mà sinh ngay loài người như vậy

          Thời người ấy trường thọ, sống lâu.

 

         *  Người nam hay người nữ nào 

       Tính hay não hại, gây sầu khổ cho

          Loài hữu tình nhỏ to các loại

          Với đất đá hay gậy, kiếm, đao

              Nghiệp ấy khi chết sinh vào

       Cõi dữ, địa ngục khổ đau vô cùng.

          Nếu sau khi mạng chung, sinh đến

          Trong loài người, bị bệnh hoạn nhiều.

 

         *  Người nam, người nữ sớm chiều

       Tánh không não hại, làm điều thiện nhân 

          Khiến sinh linh được phần an ổn

          Khi tái sinh lại chốn loài người

              Được ít bệnh hoạn, thảnh thơi.

 

   *  Có người phụ nữ hay người đàn ông

          Hay phật lòng, tâm nhiều phẫn nộ 

          Luôn cau có, tỏ lộ hận sân

              Bất bình, nóng giận rần rần

       Chống đối, bất mãn nếu không vừa lòng,

          Do nhân ấy nên trong hiện kiếp

          Mang lấy nghiệp xấu xí thân hình.

 

         *  Còn trái lại, những hữu tình

       Dù nam hay nữ bình sinh hiền lành

          Không bất bình, hận sân phẫn nộ,

          Không tỏ lộ bất mãn, chống kình

              Sau khi thân hoại, tái sinh

       Thân hình đoan chính, đẹp xinh nhu hiền.

 

      *  Này Thanh niên ! Người nam hay nữ

          Luôn có sự tật đố, ghét ganh

              Ôm ấp tâm địa chẳng lành  

       Thấy người khác được lợi danh, tôn sùng,

          Được kính cung, cúng dường, tôn trọng

          Sanh tâm chống, tật đố, ghét ganh.

              Do nghiệp như vậy đạt thành

       Tái sinh, quả ác sẵn dành cho y

          Chẳng có chút quyền uy, thế lực

          Con đường ấy quả thực chẳng lành.

 

          *  Còn người nam, nữ thiện hành

       Tánh không tật đố, ghét ganh những người

          Được quyền lợi, nhiều người vị nể,

          Được tôn trọng, kính lễ, cúng dàng,

              Không sinh tật đố trái ngang

       Khi tái sinh lại con đàng nhân gian

          Có quyền thế vẻ vang, danh lợi

          Con đường ấy đưa tới như vầy.

 

          *  Này Thanh niên ! Còn ở đây

       Có người nam, nữ không hay cúng dường

          Không bố thí các phương Phạm-chí

          Hay Sa-môn – chẳng thí, cho ra 

              Vật thực, y phục, hương hoa,

       Phấn sáp, ngọa cụ cùng là nhà, xe,

          Đèn đuốc… đều thuộc về cần thiết

          Do tham tiếc, bỏn xẻn mọi đàng

              Nếu được sinh lại nhân gian

       Làm người nghèo túng, thường mang nợ nần.

 

      *  Còn thiện nhân dù nam hay nữ  

          Thường có sự bố thí, cúng dường

              Sa-môn, Bàn-môn các phương 

       Về những loại các vị đương rất cần,

          Khi mãn phần, mạng chung thân hoại

          Được sinh lại Thiện thú, Thiên cung

              Nếu sinh cõi người, ung dung

       Có nhiều tài sản, đồ dùng có dư.

 

      *  Này Thanh niên ! Còn như nam, nữ 

          Luôn có sự ngạo nghễ, kiêu căng

              Không hề đảnh lễ Hiền nhân

       Bậc đáng đảnh lễ. Tự thân mọi thời

          Không đứng dậy trước người xứng đáng

          Không mời ngồi vị đáng mời ngồi.

              Không nhường chỗ cho những người

       Đáng nhường chỗ. Không trọng người đáng tôn

          Không kính người đáng tôn, xứng đáng

          Không cúng dường người đáng cúng dường

              Khi thân hoại, đi theo đường

       Địa ngục, ngạ quỷ hoặc đường súc sinh.

          Nếu được sinh cõi người, thua thiệt

          Vào gia đình hạ liệt, tối mê.

 

         *  Còn người nam, nữ mọi bề            

       Tánh không ngạo nghễ, không hề mạn kiêu

          Hành mọi điều thiện lành, trái ngược

          Các ác hành vừa được kể trên.

              Sau khi thân hoại, sinh lên

       Cõi thiện, Thiên giới làm Thiên chúng lành.

          Nếu phải sanh cõi người, hoan hỷ

          Vào gia đình cao quý, giàu sang.

 

         *  Này Thanh niên ! Còn nói sang   

       Có người nam, nữ tìm đàng đến nơi

          Các sa-môn hay nơi Phạm-chí

          Không hề hỏi các vị những câu

              Về thiện, bất thiện thế nào ?

       Phạm tội & không tội làm sao hiểu rành ?

          Thế nào cần thực hành những pháp ?

          Sao là pháp không cần thực hành ?

              Tôi đã làm gì chẳng lành

       Để phải bất hạnh, sẵn dành khổ đau ?

          Hay tôi phải làm sao để đạt

          Nhiều lợi ích, an lạc lâu dài ?...

              Do kiêu mạn, ngu si này

       Mạng chung đọa lạc nơi loài súc sinh

          Hoặc địa ngục hãi kinh, đọa xứ   

          Còn giả thử sinh cõi người, bèn

              Làm người trí tuệ yếu hèn

       Quả báo là thế, trắng đen tỏ liền.

      *  Này Thanh niên ! Người nam hay nữ

          Đến trú xứ Phạm-chí, Sa-môn

              Chân thành thưa hỏi cho thông

       Những điều đã được nêu trong vừa rồi.

          Do nghiệp ấy, đến thời thân hoại

          Được sinh lại Thiện thú, cõi Trời,

              Nếu như sinh vào cõi người

       Trí tuệ sung mãn, thảnh thơi lâu dài.

 

      *  Thanh niên này ! Con đường đưa đến 

          Đoản thọ khiến đoản thọ đáng thương,

              Con đường đưa đến thọ trường

       Dẫn đến trường thọ. Con đường đưa qua

          Nhiều bệnh hoạn, dẫn qua nhiều bệnh.

          Đường đưa đến ít bệnh dẫn ngay

              Đến ít bệnh hoạn như vầy.

       Đường đưa đến xấu sắc này dẫn qua

          Sự xấu xa. Con đường đưa đến

          Sự đẹp sắc, dẫn đến đẹp duyên.

              Con đường đưa đến thế quyền

       Dẫn đến lớn nhỏ thế quyền tùy theo.

          Đường đưa đến giàu nghèo tài sản

          Dẫn đến có tài sản nhỏ, to.

              Đưa đến hạ liệt co ro

       Hay được cao quý sẽ do đường này.

          Đến trí tuệ sâu dày & yếu kém

          Do con đường đưa đến thế nào

              Dẫn đến trí tuệ thấp, cao.

 

       Thanh niên ! Tóm lại trước sau vẫn là

          Hữu tình là chủ nhân của Nghiệp,

          Là thừa tự của nghiệp mọi phần,

              Nghiệp là thai tạng, thân bằng,

       Nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia liền

          Loài hữu tình chia riêng phân biệt

          Là có liệt, có ưu khác xa ”.

 

              Nghe vậy, thanh niên Su-Pha

       Tức Tô-Đây-Dá-Pút-Tà nói ra :

 

    – “ Kính bạch Gô-Ta-Ma Tôn Giả !

          Thật cao cả, vi diệu, minh quang !

              Lời Ngài cao quý vô vàn !

       Như người dựng đứng vật đang ngã nằm

          Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối

          Đem đèn sáng vào tối như bưng

              Để ai có mắt mở bừng

       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu.

          Cũng như thế, nhiệm mầu Chánh Pháp

          Được Tôn Giả giải đáp, giảng ra.

              Con xin quy ngưỡng thiết tha

       Quy y Đức Gô-Ta-Ma tịnh hòa

          Quy y Pháp – Tăng-Già đức cả

          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn

              Mong Thế Tôn nhận cho con

       Được làm đệ tử, vun tròn thiện căn

          Nguyện bản thân trọn đời ngưỡng phục

          Cho đến lúc thân này hoại đi,

              Nương tựa Thế Tôn Đại Bi,

       Nương tựa Giáo Pháp, nương uy Tăng-Già ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

( Chấm dứt Kinh số 135 : Tiểu Kinh NGHIỆP PHÂN BIỆT  – CÙLAKAMMAVIBHANGA  Sutta )

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7758)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8804)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2834)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4356)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2632)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7887)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2874)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12497)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2760)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8551)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567