Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

64. Đại Kinh Malunkyà

19/05/202010:28(Xem: 7029)
64. Đại Kinh Malunkyà

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com



64. Đại Kinh MÀLUNKYÀ
( Mahà Màlunkyà sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, đức Thế Tôn Thiện Thệ 
          An trú tại Xá-Vệ thành này
              Sa-Vát-Thí  cũng là đây
       Chê-Ta-Va-Ná  hôm mai tịnh, hòa
          Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná
          Khu vườn do Trưởng giả tên là
              A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka
       Tức Cấp-Cô-Độc, thuần hòa tín gia
          Mua lại từ Kỳ Đà thái tử
          Để cúng dường Điều Ngự Thế Tôn
              Cùng với Tăng đoàn Sa-môn
       Có nơi hoằng hóa pháp môn nhiệm huyền.
          Lúc bấy giờ Phật liền cho gọi
          Chúng Tỷ Kheo câu hội đủ đều
              Phật gọi : “ Này các Tỷ Kheo ! ”
       Chúng Tăng cung kính vâng theo lời Ngài.
 
    T – “ Các Tỷ Kheo ! Lâu nay có giữ
Năm hạ phần kiết sử(1)  thọ trì
              Do Ta giảng dạy nhiều khi ?
 
       Được nghe hỏi vậy, một vì xuất gia
    ___________________________
 
    (1) :  Năm hạ phần  Kiết Sử :  
   a) Thân kiến ( Sakkàya-ditthi ).     b) Hoài nghi  ( Vicikicchà ).              
   c) Giới cấm thủ ( Sìlabata-pàràmàsa ) .           d) Tham Dục         
                           ( Kàma-ràga  ).  e) Sân hận ( Vyàpàda ) . 
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 64 :   MALUNKYA     * MLH –  376
 
          Tôn-giả Ma-Lun-Da-Pút-Tá
          Thưa Phật rằng con đã thọ trì.
 
        – “ Ma-Lun-Dá ! Về năm chi
       Hạ phần kiết sử thọ trì ra sao ? ”.
    – “ Bạch Thế Tôn ! Trước sau tín thọ
          Con hành trì theo đó năm điều
              Hạ phần kiết sử sớm chiều
       Thế Tôn đã dạy chúng nhiều hiểm nguy
          Là thân kiến, hoài nghi tích tụ
Giới cấm thủ, tham dụcsân ”.  
 
       – “ Ma-Lun-Dá ! Hãy tỏ phân
       Vì ai hay có nguyên nhân là gì
          Ông thọ trì năm phần kiết sử
          Đã do Ta tuần tự giảng ra ?
              Này Ma-Lun-Dá-Pút-Ta !
       Có phải ông đã trải qua có lần
          Bị đạo nhân ngoại đạo cật vấn
          Với thí dụ được dẫn ra đây
              Về đứa con nít thơ ngây
       Khi ngủ, đứa con nít đây làm bằng :
          Nó không có tự thân diễn biến
          Đâu có thể thân kiến khởi lên ?
              Nhưng mà thân kiến tùy-miên
       Thật sự trong nó sống riêng tiềm tàng.
          Nếu đứa bé khi đang nằm ngửa
          Không cất chứa các pháp nào, thì
              Từ đâu có thể khởi nghi ?
       Ẩn trong nó, tùy-miên nghi ngờ này.
          Nếu như đứa bé đây nằm ngửa
          Không có giới, thì đứa bé đây                
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 64 :   MALUNKYA     * MLH –  377
 
              Từ đâu có thể khởi ngay
Giới-cấm-thủ trong giới này. Tuy nhiên
          Giới-cấm-thủ tùy-miên vẫn có
 Sống tiềm tàng trong nó sâu xa.    
              Này Ma-Lun-Dá Pút-Ta !
       Nếu đứa con nít ê a đang nằm
          Không có những dục tham ; như thế
          Đâu có thể khởi dục tham lên,
              Nhưng lòng dục-tham tùy-miên
       Vẫn tiềm tàng sống sát liền nó thôi !
          Nếu đứa bé đang chơi, nằm đó
          Thì không có các loải hữu tình
              Từ đâu có thể phát sinh
       Lòng sân với các hữu tình gần xa,
          Sân tùy-miên thực ra vẫn có
 Sống tiềm tàng trong nó sâu xa.  
              Này Ma-Lun-Dá Pút-Ta !
       Có phải ông đã trải qua có lần
          Bị đạo nhân ngoại đạo cật vấn
          Với ví dụ được dẫn trên đây ? ”.
 
              Nghe Thế Tôn nói như vầy
       A-Nan Tôn-giả bạch ngay Phật Đà :
 
    – “ Bạch Thế Tôn ! Thật là viên mãn
          Đã đến thời, xin giảng pháp chân
              Về kiết sử năm hạ phần
       Sau khi nghe giảng, Chư Tăng thọ trì ”.
 
    – “ A-Nan-Đa ! Vậy thì nghe kỹ
          Khéo tác ý, Ta sẽ trình bày ”.
 
        – “ Bạch Phật ! Xin vâng lời Ngài ”.
A-Nan Tôn-giả đáp ngay lời Thầy.
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 64 :   MALUNKYA     * MLH –  378
 
          Đức Thế Tôn pháp này thuyết giảng
          Năm kiết sử  viên mãn, toàn chu :
 
        – “ A-Nan-Đa ! Kẻ phàm phu
       Ít nghe, không thấy phạm trù Thánh Nhân (1)
          Không thuần thục pháp phần bậc Thánh
          Không tu tập pháp Thánh chánh chân.
              Không được thấy các Chân Nhân  (1)
       Không thuần thục pháp Chân-nhân các phần,
          Không tu tập Chân-nhân các pháp
          Sống với tâm bị các trược phiền
              Bởi thân kiến ; chi phối liền
       Cũng bởi thân kiến, liên miên mọi thì
          Không như thật tuệ tri về chuyện
  Sự xuất ly thân kiến khởi lên.
              Thân kiến kiên cố vị trên
       Không được nhiếp phục, trở nên một phần
 Là hạ phần kiết sử : Thân kiến.
 
          Vị ấy hiện đang sống với tâm
              Bị nghi-hoặc triền phược thầm,
       Bị nghi-hoặc chi phối tâm mọi thì.
          Không như thật tuệ tri vững chắc
          Sự xuất ly nghi-hoặc khởi lên,
              Nghi-hoặc kiên cố vị trên
       Không được nhiếp phục, trở nên một phần
 Là hạ phần kiết sử : Nghi-hoặc.   
 
          Cũng như vậy, các mặt khác sinh :   
              Vị ấy sống với tâm mình
       Bị giới cấm thủ, tận tình dục tham ,
   _____________________________
 
   (1) :  Xem chú thích ở Kinh số 1 : “Pháp Môn Căn Bản”  .
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 64 :   MALUNKYA     * MLH –  379
 
          Bị sân làm đảo điên lạc lối,
Bị triền phược chi phối mọi thì.
              Y không như thật tuệ tri
       Để khởi lên sự xuất ly, bao hàm
          Giới cấm thủ, dục tham, sân nộ,
          Ba điều ấy kiên cố chẳng lay
              Và không được nhiếp phục ngay,
  Ba hạ phần kiết sử này xảy ra.
 
          A-Nan-Đa ! Vị Thánh đệ tử 
Đa văn, tự yết kiến Thánh nhân,
              Thuần thục pháp bậc Thánh nhân.
       Đến yết kiến bậc Chân nhân các ngài,
          Pháp các ngài Chân nhân tuân thủ
          Tu tập đủ pháp Thánh & Chân nhân.
              Sống với tâm không bị phần
       Thân kiến, nghi hoặc hay phần dục tham,
          Giới cấm thủ , sân… làm triền phược,
          Bị chi phối, nên được tuệ tri
              Như thật về sự xuất ly
       Hạ phần kiết sử năm chi khởi liền.
          Năm kiết sử tùy miên đoạn diệt  
    Khi vị ấy mãi miết tinh cần.
 
              A-Nan-Đa ! Phải hiểu rằng
       Đường nào khéo diệt năm phần trói trăn
          Năm hạ phần kiết sử như vậy ?
          Nếu không hành đường ấy cố cần,
              Nhưng năm kiết sử hạ phần
       Được biết, thấy rõ, hay năng đoạn trừ
          Sự tình như nói trên, không thể
    Không xảy ra bất kể thế nào.   
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 64 :   MALUNKYA     * MLH –  380
 
              A-Nan ! Ví dụ như sau :
       Với một cây lớn thẳng cao dãi dầu,
          Một người muốn đẽo vào trong lõi
          Không đẽo loại dần vỏ, giác cây,
      Không thể xảy ra việc này.
 
       Còn lộ trình dẫn thẳng ngay, đưa dần 
          Đến đoạn trừ năm phần kiết sử,
          Nếu thực sự đường ấy thực hành
              Thời năm kiết sử hạ phần
       Sẽ được biết, thấy rõ rành khoan thư,
          Hay sẽ được đoạn trừ, như vậy
    Sự tình ấy chắc chắn xảy ra.
 
              Cũng như, này A-Nan-Đa !    
       Với cây lớn ở rừng già thẳng cao
          Nếu người ấy đẽo vào lớp vỏ
          Rồi sau đó đẽo lớp giác cây
       Thời sẽ đẽo được lõi cây.
Chắc chắn có sự tình này xảy ra.
 
          A-Nan-Đa ! Ví như đề cập
          Bờ sông Hằng nước ngập đầy tràn
              Quạ trên bờ uống dễ dàng,
       Một người ốm yếu thuận đàng đến đây
          Y suy nghĩ : ‘Sông này rộng thật !
          Ta sẽ bơi ngang tắt sông Hằng
              Với tay, ta sẽ tự thân
       Lội qua an ổn sang phần bờ bên’.
          Nhưng người trên không thể bơi được
          Ngang dòng nước rộng lớn sông Hằng.
              Cũng như vậy, này A-Nan !
       Bất cứ ai chưa sẵn sàng tâm tư
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 64 :   MALUNKYA     * MLH –  381
 
          Được giảng pháp đoạn trừ thân kiến
          Nếu tâm hiện không thích thú gì
              Không vui, không định tĩnh chi
       Không có giải thoát ; vậy thì cần xem
          Người ấy đem so người ốm yếu
 Không tự hiểu sức mình khó bơi.
 
              Ví dụ khác, có một người
       Là lực sĩ muốn qua nơi sông Hằng
          Y nghĩ rằng : ‘Ta sẽ bơi lội
          Ngang sông Hằng qua tới bờ bên
              Một cách an toàn, tự nhiên’.
       Người ấy quả thật làm liền điều đây.
          A-Nan ! Bất cứ ai thực hiện
          Giảng pháp để thân kiến đoạn trừ,
              Nếu tâm vị ấy khoan thư
       Thích thú, định tĩnh, an như, dễ dàng,
          Có giải thoát, hân hoan như vậy
     Thời vị ấy sánh lực sĩ này.
 
              A-Nan ! Thế nào ở đây
       Là con đường đưa đến ngay chẳng lầm
          Đoạn trừ năm hạ phần kiết sử ?
          A-Nan ! Tự Tỷ Kheo lánh xa
              U-Pa-Đi-Vi-Vê-Ka
     ( Các sanh y ). Cũng trải qua diệt trừ
          Bất thiện pháp do từ ý định
          Làm an tịnh thân thô ác đây
             Một cách toàn diện, hành ngay
       Ly bất thiện pháp, ly rày dục tham,
          Chứng, trú tâm vào Thiền thứ Nhất
          Trạng thái rất hỷ lạc âm thầm   
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 64 :   MALUNKYA     * MLH –  382
 
              Ly dục sanh & có tứ, tầm,
       Chánh quán Sắc pháp mọi phần trải qua,
          Thọ, Tưởng, Hành cùng là Thức pháp
          Đều vô thường, khổ khắc lênh đênh
              Như bệnh, cục bướu, mũi tên,
       Như điều bất hạnh, như bên địch thù,
          Như bệnh chết hoặc như phá hoại,
          Là ‘không’, lại ‘vô ngã’ như vầy.
 
              Vị này giải thoát tâm ngay
       Khỏi các pháp ấy. Rồi nay tinh cần
          Tập trung tâm vào bất-tử-giới :
         ‘Tịch tịnh với vi diệu là đây,
              An chỉ tất cả hành này
     Sanh y tất cả từ rày xả ly.
          Sự ái diệt mọi thì, đoạn diệt,
          Sự vô tham, tịnh khiết, Niết-bàn’.
 
              Nếu đạt vững chắc trú an
       Vị này đạt đến dễ dàng mục tiêu
  Sự đoạn tận các điều lậu-hoặc.
          Nếu không diệt lậu-hoặc vô minh
              Thời do Tham pháp linh tinh
       Và do Hỷ pháp của mình là nhân.
          Do đoạn tận năm phần kiết sử 
          Vị ấy tự hóa sanh, Niết-bàn,
     Đời này không trở lui sang.
       A-Nan ! Đây chính con đàng chân như
          Đưa đến sự đoạn trừ tuần tự
   Năm hạ phần kiết sử trải qua.
 
              Lại nữa, này A-Nan-Đa ! 
       Vị Tỷ Kheo diệt tầm và tứ đây
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 64 :   MALUNKYA     * MLH –  383
 
          Chứng, trú ngay Nhị Thiền tự tại
          Một trạng thái hỷ lạc, định sanh
              Ly hỷ trú xả, nhất tâm
       Chánh niệm tỉnh giác, thì thân cảm liền
          Sự lạc thọ, thánh hiền gọi đủ
          Là ‘xả niệm lạc trú’ tâm chuyên
      Chứng và an trú Tam Thiền.
       Như vậy vị ấy an nhiên chứng liền
 Vào Sơ, Nhị, Tam Thiền các mục.
          Vị hành giả tiếp tục định thiền
             Xả lạc, xả khổ ; tâm yên
       Diệt hỷ, ưu, cảm thọ – liền trước đây
          Chứng và trú vào Thiền Đệ Tứ
          Không khổ, lạc ; không giữ niệm nào.
 
             A-Nan ! Tỷ Kheo thanh cao
       Vượt mọi Sắc tưởng cho dầu bao nhiêu,
          Chướng-ngại-tưởng mọi điều diệt kỹ
          Không tác ý với dị-tưởng liền,
              Nghĩ : ‘Hư không là vô biên’
       Chứng, trú Hư Không Vô Biên Xứ này.
 
          Rồi vượt ngay Không Vô Biên Xứ
          Suy nghĩ sự ‘Thức là vô biên’
     Chứng, trú Xứ Thức Vô Biên.
 
       Vượt lên mọi Thức vô biên Xứ này,
          Nghĩ như vầy : ‘Không có gì cả’
          Chứng, trú Vô Sở Hữu Xứ ngay.
 
              Tư duy vị Tỷ Kheo này
       Chánh quán Sắc pháp mọi phần trải qua,
          Thọ, Tưởng, Hành cùng là Thức pháp
          Đều vô thường, khổ khắc lênh đênh
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 64 :   MALUNKYA     * MLH –  384
 
              Như bệnh, cục bướu, mũi tên,
       Như điều bất hạnh, như bên địch thù,
          Như bệnh chết hoặc như phá hoại,
          Là ‘không’, lại ‘vô ngã’ như vầy.
 
              Vị này giải thoát tâm ngay
       Khỏi các pháp ấy. Rồi nay tinh cần
          Tập trung tâm vào bất-tử-giới :
         ‘Tịch tịnh với vi diệu là đây,
              An chỉ tất cả hành này
     Sanh y tất cả từ rày xả ly.
          Sự ái diệt mọi thì, đoạn diệt,
          Sự vô tham, tịnh khiết, Niết-bàn’.
 
              Nếu đạt vững chắc trú an
       Vị này đạt đến dễ dàng mục tiêu
  Sự đoạn tận các điều lậu-hoặc.
          Nếu không diệt lậu-hoặc vô minh
              Thời do Tham pháp linh tinh
       Và do Hỷ pháp của mình là nhân.
          Do đoạn tận năm phần kiết sử 
          Vị ấy tự hóa sanh, Niết-bàn,
     Đời này không trở lui sang.
       A-Nan ! Đây chính con đàng chân như
          Đưa đến sự đoạn trừ tuần tự
   Năm hạ phần kiết sử trải qua ”.
 
        – “ Bạch Thế Tôn ! Nếu đây là  
       Con đường đưa đến diệt mà tuyệt căn
          Tất cả năm hạ phần kiết sử
          Thời như vậy, do sự hành trì
               Một số Tỷ Kheo các vì                    
       Tâm-giải-thoát họ tức thì chứng ngay ?       
Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 64 :   MALUNKYA     * MLH –  385
 
          Hay chứng ngay vào Tuệ-giải-thoát ? ”.
 
    – “ A-Nan ! Do sai khác nhằm vào
              Do căn tánh họ khác nhau
     ( Sự chứng giải thoát không sao tương đồng ) ”.
          Được nghe từ Thế Tôn Điều Ngự       
          Năm hạ phần kiết sử giảng ra
              A-Nan cùng khắp Tăng-Già
       Hoan hỷ tín thọ Phật Đà kim ngôn ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
 
*   *   *
 
(  Chấm dứt  Kinh số 64  :  Đại Kinh  MÀLUNKYÀ
–  MAHÀ MÀLUNKYA   Sutta  )
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7753)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8797)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2832)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4352)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2630)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7884)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12494)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8544)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567