Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

87. Kinh Ái Sanh

19/05/202010:53(Xem: 7224)
87. Kinh Ái Sanh

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập III
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


87. Kinh ÁI SANH

( Piyajàtika sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ

          Trú Xá Vệ, Chê-Tá-Va-Na

            ( Tinh Xá Kỳ Viên cũng là )

       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka cúng dường

         ( Người gọi thường là Cấp-Cô-Độc ).

 

          Lúc bấy giờ, con một gia đình

              Cậu bé khả ái, thông minh

       Bỗng bị bệnh chết. Do tình mến thương

          Người cha dường như không chịu nổi

          Suốt sáng tối chẳng ăn uống chi

              Không còn muốn làm việc gì

       Cứ ra nghĩa địa, ai bi khóc sầu :

 

    – “ Con ở đâu ? Hỡi con yêu dấu

          Đứa con một, lương hảo của ta ! ”.

 

              Thế rồi ông ấy ghé qua

       Chùa Kỳ Viên, gặp Phật Đà tại đây

          Đảnh lễ Ngài xong ngồi xuống kế

          Bên Thiện Thệ, nét mặt bần thần.

              Phật liền hỏi : “ Này thiện nhân !

       Tự tâm ông trú các căn hằng ngày

          Có phải các căn nay đổi khác ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Đổi khác đúng thôi !

              Làm sao không đổi khác rồi !

       Khi đứa con một qua đời đáng thương

          Một đứa con dễ thương hết sức

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  224

 

          Con yêu quý, rất mực cưng chiều

              Nhưng bỗng một sớm một chiều

       Chết đi, để lại muôn điều xót xa.

          Con cứ ra nghĩa địa than khóc :

         ‘Con ở đâu ? Con độc nhất ơi ! ”.

 

        – “ Sự thật là như vậy rồi !   

       Vì rằng Gia chủ hiện thời sầu, bi,

          Khổ, ưu, não  do vì chữ Ái,

          Từ nơi Ái hiện hữu, Ái sinh ”.

 

        – “ Bạch Phật !Với ai, sự tình      

       Sẽ như vậy : ‘Do Ái sinh khổ, sầu,

          Bi, ưu, não – Ái nào hiện hữu ?’

          Vì hỷ lạc hiện hữu từ nơi   

              Ái kia. Do Ái sinh thôi ”.

 

       Rồi người gia-chủ đang ngồi nơi đây

          Đứng dậy ngay, không hoan hỷ mấy,

          Cũng không chống báng lại, đi ra .

 

              Lúc ấy, cách đó không xa

       Một nhóm đánh bạc đang la, reo hò

          Họ chơi trò chơi đổ nhất lục.

          Người gia-chủ buồn bực ghé đây

              Nói với những người nơi này

       Về câu chuyện với Phật Ngài vừa qua

          Ý Phật Đà với mình trái nghịch,

          Ngài giải thích : ‘Do Ái sinh ra,

              Hiện hữu từ nơiÁi – là

       Sầu, bi, não hại, ưu và khổ thôi.

          Nhưng theo tôi, hỷ-lạc được tả

        ( A-Nan-Đa-Sô-Má-Nát-Sa )   (Anandasomanassa)

              Mới là do Ái sinh ra,    

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  225

 

       Hiện hữu từ nơi Ái, là đúng thôi’.

          Nên tôi từ chỗ ngồi đứng dậy

          Không hoan hỷ lời dạy của Ngài,

              Cũng không chống báng lại Ngài,

       Ra về, rồi ghé vào đây như vầy.   

 

          Gia chủ này ! Sự thật là vậy !

          Hỷ lạc ấy do Ái sinh vầy,

              Hiện hữu từ nơi Ái đây ”.

 

       Người gia-chủ ấy nghĩ ngay  ý là :

         ‘Giữa ta và những người đánh bạc,

          Sự đồng thuận tương tác xảy ra’.

              Nghĩ rồi, ông bỏ đi ra.

 

       Cuộc đối thoại ấy dần dà lan nhanh 

          Khắp kinh thành lan truyền như thế

          Tận nội cung Pa-Sế-Na-Đi

              Vua Kô-Sa-La – tức thì

       Truyền gọi Hoàng-hậu Man-Li-Ka liền,

          Rồi bảo bà : “ Đây nguyên lời nói

          Vị Sa-Môn tên gọi Thích Ca :

             ‘Sầu, bi, ưu, não – cùng là

       Khổ đau do Ái sinh ra trên đời,

          Và hiện hữu từ nơi Ái đó ”.

 

    – “ Tâu Đại Vương ! Nếu có lời này  

              Do đức Thế Tôn giảng bày

       Thì sự việc là như vầy, chẳng sai ”.

 

    – “ Man-Li-Ka ! Dở hay chẳng kể

          Điều gì hễ vị Gô-Ta-Ma

              Nói ra, thì Man-Li-Ka              ( Mallika )

       Cũng nói theo hệt như là Đạo Sư.

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  226

 

          Vì nàng vốn khư khư tin tưởng,

          Quá hoan hỷ, kính ngưỡng Đạo Sư.

              Đệ tử khi nghe Đạo Sư 

       Liền thưa : ‘Sự thật là như vậy rồi !’

          Man-Li-Ka nay thời cũng thế

          Nên nói : ‘Đấng Thiện Thệ nói vầy

              Thời sự việc là như vầy’.

       Thôi Hoàng-hậu hãy đi ngay ra ngoài ”.

-------------------

          Hoàng-hậu liền cho đòi một vị  

          Tên Na-Lí-Chăn-Gá  Bàn-môn

 

              Bảo rằng : “ Này Bà-la-môn ! 

       Ông hãy đến chỗ Thế Tôn Phật Đà   

          Khi đến, nhân danh ta đảnh lễ

          Dưới chân đấng Thiện Thệ, thưa là :

            ‘Vị Hoàng-hậu Man-Li-Ka

       Sai con đến gặp để mà vấn an

          Thế Tôn có khinh an, ít não ?

          Ít bệnh và an hảo hay không ?

              Khí lực sung mãn, tiêu thông ?

       Có lạc trú ?  Rồi hỏi trong ý rằng :

         ‘Có phải chăng Thế Tôn đã nói :

          Tất cả mọi ưu, não, bi, sầu,

              Và khổ … do Ái sinh mau ?

       Hiện hữu từ nơi Ái lâu chẳng cùng’.

          Nếu Thế Tôn bao dung giải thích

          Và phân tích ý nghĩa tròn đầy,

              Ông khéo nắm giữ ý Ngài

       Trở về nói lại ta hay tức thì ”.

 

    – “ Vâng, thần sẽ thực thi ý chỉ ”.

 

          Sau đó vị Na-Lí-Chăn-Ga           ( Nalijangha )

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  227

 

              Vâng lệnh bà Man-Li-Ka

       Nhắm trú xứ của Phật Đà đến nơi.

          Sau khi đến, nói lời chào hỏi,

          Lời thăm viếng thuộc loại xã giao

              Đoạn ông một bên ngồi vào

       Hướng Phật, Phạm Chí trước sau chuyển lời

          Của Hoàng-hậu từ nơi cung khuyết

          Mọi chi tiết nhờ hỏi Phật Đà

              Vị Bàn-môn đều nêu ra.

 

       Đức Phật liền bảo : “ Này Bà-la-môn !

          Đây là một pháp môn tiêu biểu,

          Cần phải hiểu : ‘Ưu, não mọi thời,

              Sầu, bi, đau khổ trên đời

       Do Ái sinh cả, Ái thời có ra.

 

          Này Bàn-môn ! Thuở xa xưa đó 

          Sa-Vát-Thi hằng có xảy ra

              Người anh, người chồng, người cha,

       Người em, người chị hoặc là người con,

          Là con trai hay con gái ruột

          Của một bà, mệnh một ( chết đi )

              Nhất là người chồng tương tri

       Bỗng dưng bị chết, ai bi tận cùng

          Người đàn bà điên cuồng phát tán   

          Tâm tư thật hỗn loạn, thê lương

              Lang thang khắp các nẽo đường

       Gặp ai cũng hỏi chỉ thường một câu :

         ‘Chồng của tôi ở đâu, có thấy ?

          Người có thấy chồng tôi đâu không ?’.

 

              Hay người con hiếu đau lòng  

       Khi người mẹ chẳng còn trong cõi đời

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  228

 

          Phát điên cuồng nên người hiếu tử

          Chạy đi khắp, bất cứ nơi nào

              Gặp ai cũng hỏi một câu :

      ‘Người ơi ! Có thấy nơi nào mẹ tôi ?

          Người có thấy mẹ tôi không hả ?’.

 

          Nói chung lại, tất cả người thương 

              Chẳng ai thoát khỏi vô thường,

       Đối diện cái chết, đau thương khổ sầu.

 

          Này Bàn-môn ! Thuở lâu xưa đó  

          Xá Vệ có trường hợp đau lòng :

              Một người đàn bà có chồng

       Về thăm gia quyến. Số đông họ hàng

          Vốn không ưa gì chàng rễ đó

          Nên bọn họ buộc người đàn bà

              Phải đoạn tuyệt chồng cô ta,

       Để gã cho một người xa lạ nào.

          Người vợ ấy kêu gào không chịu,

          Nhắn người chồng hãy liệu cứu mình.

              Chàng ta hết lời biện minh

       Không thuyết phục được gia đình vợ đây,

          Quá tuyệt vọng, người này giết chết

          Vợ mình, rồi tự kết liễu mình    

              Với lời nguyện ước ba sinh

       Kiếp sau gặp lại, đượm tình sắt son.

 

          Này Phạm Chí ! Pháp môn phải hiểu : 

          Do từ Ái hiện hữu, sinh ra

              Sầu, bi, khổ, não, xót xa ”.

 

       Phạm-chí Na-Lí-Chăn-Ga bấy giờ

          Nghe Thế Tôn khế cơ giảng kỹ

          Rất hoan hỷ tín thọ lời Ngài,

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  229

 

              Rồi ông đứng dậy đi ngay

       Về trình bày lại việc đây rõ ràng.

          Hoàng-hậu Man-Li-Ka nghe thế

          Gặp Quốc Vương  Pa-Sế-Na-Đi

              Thưa rằng : “ Ngài có yêu vì

       Đến công chúa Va-Chi-Rì hay chăng ?

          Con chúng ta muôn phần nhu thuận ”.

 

    – “ Man-Li-Ka ! Bất luận là chi

              Ta rất thương Va-Chi-Ri ”.              ( Vajiri )

 

 – “ Đại Vương ! Nếu có điều gì xảy ra

          Khi con ta chịu điều biến dịch

          Như mất tích hay bệnh trầm kha,

              Sự chết cũng có thể là,

       Tâm trạng ngài sẽ trải qua thế nào ? 

          Có ưu, sầu, bi thương, khổ, não ? ”.

 

    – “ Man-Li-Ka ! Nếu bảo rằng là

              Những sự như nàng kể qua

       Đến với công chúa con ta như vầy

          Thì trẫm đây khởi lên sầu, khổ,

          Bi, ưu, não đốn đổ trẫm ngay ”.

 

        – “ Chính liên hệ sự tình này 

       Mà Thế Tôn – bậc sâu dày Kiến, Tri,

          Chánh Biến Tri, Đại A-La-Hán

          Đã thuyết giảng về Ái sinh ra .

 

              Còn với nàng Va-Sa-Pha        ( Vàsabha  (1)

       Nữ Sát-Đế-Lỵ thướt tha yêu kiều

          Đại Vương có thương yêu nàng ấy ?

          Ngài cảm thấy tâm trạng ra sao

              Nếu có biến dịch về sau

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  230

 

       Với Va-Sa-Phá – Ngài sầu, khổ không ?

          Hoặc là trong trường hợp tương tự

          Về Tướng-quân Vi-Đú-Đa-Pha  (1)

            ( Hay Tỳ-Lưu-Ly cũng là )

       Nếu có mệnh hệ xảy ra đau lòng

          Với vương tử, thì trong việc ấy

          Ngài cảm thấy như thế nào đây ? ”.

        – “ Man-Li-Ka ! Với việc này

       Ta thương, yêu quý cả hai người này

          Vương tử đây Vi-Đu-Đá-Phá

          Và nàng Va-Sa-Phá thứ phi

              Nếu họ bất hạnh đến thì,

       Ta rất ưu, não, sầu, bi, khổ nhiều ”.

      _____________________________

 

( ) : Vương tử Vidudabha  – Tỳ-Lưu-Ly là con của vua Ba-Tư-Nặc

      ( Pasenadi ) và một nữ tỳ của dòng họ Thích Ca ( Sakya ).

    Nguyên từ khi kính ngưỡng, quy y với Đức Phật, vua Pasenadi 

   muốn kết thân với dòng họ Thích Ca của Phật, nên cầu hôn với

    một công chúa dòng họ này .  Nhưng dòng Sakya rất ngã mạn,

    không muốn gã người của dòng họ Thích Ca nên mới đem một

    công chúa xinh đẹp con vua Mahànàma  với một nữ tỳ gã cho

    vua Ba-Tư-Nặc ( đó là nàng Vàsabha Khattiya ) . Sau khi lớn

   khôn, Thái tử đòi về thăm họ ngoại, và đã bịmột sự sỉ nhục vì là

   con một nữ tỳ, nên liền kết oan trái oán thù và nuôi hận trong

   lòng, quyết sẽ tận diệt dòng họ Thích Ca.Sau  này ông nổi loạn

   chống lại vua cha, và chính vì điều này Vua Pasenadi đã trải qua

   một cái chết bi thảm. Về sau, khi đoạt được vương quyền lên làm

   vua, ông đã xua quân tàn sát Ca-Tỳ-La-Vệ. Đức Phật đã ba lần  

  ngăn cản và Vidudabha vì kính trọng Phật nên lui binh. Nhưng

  đến lần thứ tư thì Ngài quán thấy dòng họ Thích Ca phải trả một

  tiền nghiệp lớn nên Ngài không ngăn cản nữa. Dòng họ Sakya bị

  tru diệt hầu như gần hết, chỉ một số trốn thoát và thiên di đến tại

  Xứ Gandhara. Sau trận tàn sát, Vidudabha trên đường về, hạ trại

  nghỉ đêm bên bờ sông và một trận cuồng phong nước lũ đã cuốn

  phăng cả đoàn quân kể cả ông nhấn chìm vào biển cả.     

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  231

 

 

    – “ Chính liên hệ với điều như thế

          Đấng Thiện Thệ. Kiến giả, Toàn tri,

              A-La-Hán, Chánh Biến Tri

       Đã thuyết giảng về những gì Ái sanh.

 

          Tâu Đại Vương ! Hãy thành thật nói

          Về câu hỏi : ‘Ngài thương thiếp không ?

              Nếu có biến dịch đau lòng

       Ngài có sầu, khổ hay không, thưa ngài ? ”.

 

    – “ Chính trẫm đây yêu thương rất mực

          Vị Hoàng-hậu hiền đức như nàng.

              Nếu có mệnh hệ trái ngang

       Ta khổ, sầu, não, vô vàn ưu, bi ”.

 

    – “ Tâu Đại Vương ! Chính vì như thế

          Đấng Thiện Thệ, Chánh Giác, Phật Đà

              Quan điểm như vậy thuyết ra.

 

       Đại Vương ! Dân chúng Kô-Sa-La này 

          Hay Ka-Si dân đây sinh sống

          Nếu có sự biến động ( can qua

              Dẫn đến chết chóc hằng sa )

       Ngài có khổ, não, sầu và ưu, bi ? ”.

 

    – “ Man-Li-Ka ! Ka-Si dân chúng

          Cùng dân chúng Kô-Sa-La này

              Nhờ sức mạnh của họ đây

       Ta mới có được hằng ngày tiện nghi,

          Gỗ chiên đàn Ka-Si cung cấp

          Các hương liệu, phấn sáp, tràng hoa…

              Cũng do từ họ mà ra,

       Có sự biến dịch, thật là khổ đau

          Từ thẳm sâu có sự thay đổi

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 87 : ÁI SANH  (Piyajàtika)  * MLH –  232

 

          Xảy đến với mạng sống của ta

              Làm sao với việc xảy ra

       Lại không khởi tự tâm ta ưu, sầu,

          Bi, khổ, não  càng sâu hơn thế ”.

 

    – “ Đại Vương ! Chính liên hệ việc ni

              Nên đấng Chánh Giác, Toàn tri,

       Tri giả, Kiến giả – là vì Thế Tôn,

          Đại Sa-Môn, Đại A-La-Hán

          Đã thuyết giảng, khẳng định mọi thì :

             ‘Các khổ, sầu, não, ưu, bi

       Đều sinh từ Ái, chúng thì có ngay ”.

 

     – “ Vi diệu thay ! Này Man-Li-Ká !

          Hy hữu thay ! Giác Giả Phật Đà !

              Thể nhập trí tuệ sâu xa

       Nên Ngài đã biết, thấy ra như vầy.

          Man-Li-Ka ! Đến đây cùng trẫm

          Sửa soạn sắm nghi thức tẩy trần ”.

 

              Vua Ba-Tư-Nặc khởi thân

       Vai trái liền đắp vào phần thượng y,

          Chắp tay, hướng đến vì Điều Ngự

          Xá về Phật rồi tự nói ra

              Ba lần lời cảm hứng là :

    “ Thành kính đảnh lễ Phật Đà Thế Tôn  

          Đại Sa-Môn, Đại A-La-Hán,

          Chánh Đẳng Giác viên mãn Toàn Tri,

              Kính lễ đức Chánh Biến Tri

       Bậc Vô Thượng Sĩ trí bi vô lường ”./-     

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

(  Chấm dứt  Kinh  số 87  :  Kinh  ÁI SANH   –

PIYAJÀTIKA  Sutta  )




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7752)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8792)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2831)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4352)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2630)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7881)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12494)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8542)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567