Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

90. Kinh Kannakatthala

19/05/202010:54(Xem: 7339)
90. Kinh Kannakatthala

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập III
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


90. Kinh  KANNAKATTHALA 

( Kannakatthala sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả

          Đang du hóa tại Ú-Chun-Na  (1)

              Trú Kan-Ná-Kát-Tha-La  (2)

       Gần Lộc Uyển, cùng tịnh hòa Săng-Ga. (3)

 

          Vương quốc Kô-Sa-La cai trị

          Là Pa-Sê-Na-Đí Vương-gia

              Thân lâm đến U-Chun-Na

       Vì có công vụ cần qua nơi này.

          Ở tại đây, Vua liền ra lệnh

          Người hầu cận : “ Hãy đến ngay nơi

              Bậc Tôn quý nhất trên đời.  (4)

       Nhân danh ta, hãy tức thời khởi thân

          Đảnh lễ bậc Thiên Nhân Sư ấy,

          Cúi đầu lạy dưới chân Phật Đà,

              Hỏi thăm Ngài đã trải qua

       Có được ít bệnh cùng là khinh an ?

          Có mạnh khỏe, dễ dàng, lạc trú ?

          Thưa : ‘Quốc chủ nước Kô-Sa-La

              Là Ba-Tư-Nặc Vương-gia

       Nhờ con đảnh lễ Phật Đà thật sâu

          Thưa rằng : Sau điểm tâm ngự thiện

          Vua sẽ đến yết kiến Phật Đà ”.    

     _________________________

 

(1) : Ujunna .  (2) : Kannakatthala .  (3) : Sangha – phiên  âm là

      Tăng-Già.        (4) : Thế Tôn – Bhagava .

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  256

 

        – “ Tâu vâng ! Thần sẽ đi qua ”.

       Người ấy vâng đáp rồi ra đi liền.

 

          Ở cung riêng, nhưng khi biết chuyện

          Vua sẽ đến yết kiến Phật Đà,

              Sô-Ma và Sa-Ku-La            ( Soma & Sakula )

       Hai chị em đến gặp và thưa ra :

 

     – “ Tâu Đại Vương ! Thật là duyên phước !

          Thiếp biết được Đại Vương hôm nay

              Đến trú xứ Phật thăm Ngài,

       Xin cho chúng thiếp nơi đây gởi lời

          Thành kính đảnh lễ nơi chân Phật,

          Vấn an Phật giùm chúng thiếp đây ”.

 

              Sau điểm tâm, Vua đi ngay 

       Đến nơi, ông đảnh lễ Ngài, tự thân

          Cúi đầu lạy sát chân Đức Phật,

          Hỏi thăm Phật ít bệnh, khinh an ?

              Rồi một bên Phật ngồi sang

       Bạch Phật về việc hai nàng : Sô-Ma &

          Sa-Ku-La gởi lời đảnh lễ.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Không thể đến đây

              Tại sao hai chị em này

      Không nhờ người khác, nhờ ngài chuyện đây ?”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Cả hai nàng đó

          Được biết con sẽ có đến đây

              Để yết kiến, đảnh lễ Ngài,

       Nên cả hai đã đến ngay thiện-phòng

          Nhờ con chuyển tấm lòng cung kính

          Đến Thế Tôn, thanh tịnh Phật Đà ”.

 

         – “Đại Vương ! Nguyện phước hà sa

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  257

 

       Đến với Sô-Má cùng Sa-Ku-Là ”. 

           Quốc vương Kô-Sa-La kế tiếp

           Liền thuận dịp bạch với Phật Đà :

 

         – “ Bạch Thế Tôn ! Con nghe qua

       Rằng : ‘Sa-môn Gô-Ta-Ma nói là :

          Không một Sa-môn hay Phạm-chí

          Là bậc trí – toàn kiến, toàn tri

              Có thể tự cho là vì            

       Chứng được tri kiến diệu kỳ mãn viên.

          Điều như vậy dĩ nhiên không có’. 

          Bạch Phật ! Nếu như họ nói vầy

              Có phải là đúng lời Ngài,

       Họ không xuyên tạc, đúng ngay như vầy ?

          Họ giải thích pháp này đúng pháp ?

          Những ai nói đúng pháp, hợp thời

              Không ai có cơ hội rồi !

       Để mà chỉ trích những lời nói trên ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Nói lên như vậy  

          Lời nói ấy hư ngụy, tào lao.

              Khi bảo Ta nói như sau :

      ‘Không Phạm-chí, Sa-môn nào toàn tri

          Và toàn kiến, tức thì chứng đắc

          Tri kiến thật viên mãn, trải qua

              Điều ấy không thể xảy ra’.

       Họ nói không đúng lời Ta nói rồi !

          Và đồng thời xuyên tạc chủ ý

          Một cách rất hư ngụy, sai ngoa ”.

 

              Quốc vương nước Kô-Sa-La 

       Liền hỏi Vi-Đú-Đa-Phà Tướng quân :

 

   – “ Này Tướng quân ! Ai đem chuyện ấy   

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  258

 

          Vào nội cung, đồn bậy như vầy ? ”.

 

        – “ Tâu Phụ vương ! Chính vị này

       Sanh-Cha-Dá Bàn-môn đây phao truyền

          Dòng họ nguyên là A-Ka-Sá               ( Akasa )

          Ông ta đã nói lên như vầy ”.

 

              Vua Ba-Tư-Nặc gọi ngay

       Một người hầu cận đến đây, bảo là :

 

    – “ Hãy đến nhà Bàn-môn tên cả

          Là Sanh-Chá-Dá A-Ka-Sa,

              Rồi ngươi hãy nhân danh ta

        Truyền gọi ông ấy hãy qua gặp liền ”.

 

           Người ấy liền vâng theo vương lệnh

           Vội đi đến nhà Sanh-Cha-Da.          ( Sanjaya )  

 

              Quốc vương thưa với Phật Đà :

 – “ Bạch Phật ! Có thể xảy ra vấn đề

          Ngài nói về một chuyện khác hẳn,

          Người ta gán chuyện ấy khác đi.

              Bạch Ngài ! Liên hệ chuyện gì

       Mà Ngài xem đó mình duy nói thường ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Điều Ta tự biết  

          Đã nói ra chơn thiệt như sau :

             ‘Không Sa-môn, Bàn-môn nào

       Có thể cùng lúc biết mau hoàn toàn

          Đồng thời cũng hoàn toàn thấy rõ.

          Không thể có sự tình như trên ”.

 

        – “ Thế Tôn thuyết có nhân duyên,

       Thuyết liên hệ đến nhân duyên, nói là :

         ‘Không một Sa-môn, Bàn-môn nào đó

          Trong một lúc, biết rõ hoàn toàn

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  259

 

              Và cũng thấy rõ hoàn toàn.

       Sự tình như vậy không hằng xảy ra’.

          Bạch Phật-Đà ! Giai cấp nói tới :

          Sát-Đế-Lị cùng với Bàn-môn,

              Phệ Xá, Thủ Đà sinh tồn,

       Có gì sai biệt, vẫn còn khác nhau ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Hàng rào giai cấp

          Hai giai cấp : Sát-Lị & Bàn-môn

              Được xem tối thượng đáng tôn.

       Hai giai cấp thấp không tôn quý gì,

          Khi thấy họ, tức thì đứng dậy

          Chắp tay lại, ra sức làm ngay

              Công việc giai cấp trên sai ”.

 

 – “ Bạch Thiện Thệ ! Con hỏi ngay vấn đề

          Về tương lai, không về hiện tại.

          Xin hỏi lại : Sát-Lị, Bàn-môn,

              Phệ Xá, Thủ Đà… sinh tồn

       Có gì sai biệt, vẫn còn khác nhau ? ”.

 

     – “ Thưa Đại Vương ! Bàn vào việc ấy

          Tinh-cần-chi năm loại chánh chân.

              Thế nào là năm tinh cần ?

   *  Một vị Phích-Khú vững phần lòng tin :

          Rất vững tin giác ngộ của Phật :

          Ngài là bậc Ứng Cúng đại từ,

              Chánh Đẳng Giác, Thiên Nhân Sư,

       Thiện Thệ, Điều Ngự Trượng Phu, Phật Đà,

          Ngài cũng là bậc Thế Gian Giải,

          Vô Thượng Sĩ, bậc Đại Sa-Môn,

              Đấng Minh Hạnh Túc, Thế Tôn.

       Luôn tin tưởng Phật, Pháp môn hành đều.  

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  260

 

     *  Vị Tỷ Kheo ít bệnh, ít não,                          

          Sự tiêu hóa an hảo, điều hòa,

              Không lạnh quá, không nóng già,

       Hợp với tinh tấn, trải qua sớm chiều.

 

      *  Không gian ngoa, không điều xảo trá,

          Nêu rõ cả tự mình như chân

              Với bậc Đạo Sư, trí nhân,  

       Các đồng Phạm hạnh – mọi phần quang minh.

 

      *  Sống tự mình siêng năng, tinh tấn,

          Và diệt tận ác pháp các điều,    

              Thành tựu các thiện pháp nhiều,

       Kiên tâm trì chí, hướng chiều chân như.

 

      *  Với thiện pháp, không từ gánh nặng

          Có thù thắng trí tuệ tựu thành

              Về sự các pháp diệt sanh,

       Thể nhập của bậc Thánh nhân các ngài,

          Đưa đến ngay đoạn diệt khổ khốn.

 

          Đại Vương ! Bốn giai cấp vẫn còn :

              Sát-Đế-Lị, Bà-La-Môn,

       Thủ-Đà, Phệ-Xá… sinh tồn xưa nay,

          Nếu các giai cấp này thành tựu

          Tinh-cần-chi hiện hữu năm điều

              Sẽ đưa đến hạnh phúc nhiều,

       Lâu dài an lạc, triệt tiêu khổ sầu ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Nói vào giai cấp 

          Đã đề cập, nếu họ tựu thành

              Năm tinh-cần-chi tốt lành

       Có gì sai biệt ngọn ngành khác nhau ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Bàn vào chi tiết

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  216

 

          Ta nói đến sai biệt tinh cần.

              Như những con voi, thành phần

       Đáng được điều phục, hoặc nhân ngựa, bò

          Là nguyên do đáng điều phục nữa.

 

          Hai con voi, hai ngựa, hai bò

              Được khéo điều phục, luyện cho.

       Lại có hai ngựa, hai bò, hai voi

          Là những đôi không được huấn luyện,

          Không diễn tiến điều phục chuyên sâu.

              Thưa Đại Vương ! Ngài nghĩ sao

       Trường hợp hai ngựa ? Thế nào bò, voi ?

          Khéo huấn luyện nhà nòi, điều phục,

          Có phải được điều phục hay chăng ?

             ‘Khả năng điều phục’ đạt phần ?

    ( Tức Đanh-Ta-Ká-Rá-Năng – từ này )

          Đạt được ngay ‘vị trí điều phục’ ?

        ( Nguyên ngữ tức Đanh-Tá-Phu-Mi )

 

       – “ Thưa vâng ! Bạch Chánh Biến Tri ! ”.

 

 – “ Thưa Đại Vương ! Còn trong thì luyện cho     

          Hai con voi, hai bò, hai ngựa      

          Không được khéo luyện sửa tốt lành,

              Không khéo điều phục cho thành,

       Mà những con đó đạt nhanh về phần

          Là ‘khả năng điều phục’ hoàn mỹ

          Và ‘vị trí điều phục’ được không ? ”.

 

        – “ Thưa không, bạch đức Thế Tôn ! ”. 

 

 – “ Đại Vương ! Cũng vậy. Do lòng tin sâu,

          Do ít bệnh, không màu gian trá,

          Do tinh tấn… nên đã đạt thành.

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  262

 

              Không thể do bất tín sanh,

       Không do nhiều bệnh, gian manh đạt vầy.

          Sự tình này không thể nào có ! ”.

 

    – “ Bạch Phật ! Ngài thuyết có nhân duyên,

              Thuyết liên hệ đến nhân duyên.

       Từ xưa, bốn giai cấp riêng sinh tồn :

          Sát-Đế-Lị, Bàn-Môn hai giới,

          Phệ-Xá với Thủ-Đà nêu danh.

              Nếu các vị ấy tựu thành

       Năm tinh-cần-chi tịnh thanh hành trì

          Thì có thể có chi khác biệt ?

          Có thể có sai biệt nào không ? ”.

 

       – “ Thưa Đại Vương ! Ta nói không ! 

       Không có khác biệt gì trong vấn đề

          Khi thuộc về phương diện giải thoát.

          Đối với sự giải thoát an từ.

              Thưa Đại Vương ! Ví dụ như :

       Một người đem củi khô từ Sa-la

          Rồi nhen lửa, hiện ra ngọn lửa.

          Những người nữa đem củi xoài khô,

              Hoặc mang củi cây mít khô,

       U-Đum-Ba-Rá cây khô đến liền,       ( Udumbara )

          Nhen lửa lên, dĩ nhiên lửa đỏ.

 

          Thưa Đại Vương ! Điều đó thế nào ?

              Các loại củi khô khác nhau

       Có gì sai khác giữa màu sắc, hay

          Giữa lửa này với ngọn lửa khác

          Giữa ánh sáng có khác nhau không ? ”.

 

        – “ Thưa không, bạch đức Thế Tôn ! ”. 

 

– “ Thưa Đại Vương ! Cũng vậy. Trong việc này,

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  263

 

          Sức nóng vầy tạo do tinh tấn,

          Do tinh tấn nhen nhúm mà ra.

              Ở đây Ta nói rõ là

       Không có sai biệt xảy ra điều mà

          Giải thoát và giải thoát khác đó ”.

 

    – “ Ngài thuyết có & liên hệ nhân duyên 

              Có hay không có Chư Thiên ? ”.

 

 – “ Đại Vương ! Sao lại hỏi lên điều này ? ”.    

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Chẳng hay Thiên Chúng

          Có phải đúng sanh lại tại đây ?

              Hay không sinh lại tại đây ? ”.

 

 – “ Đại Vương ! Thiên Chúng nào đầy hại tâm 

          Sanh lại nhằm tại đây, duyên báo.

          Chư Thiên không có não-hại-tâm

              Thì không tại đây sanh nhằm ”.

 

       Nghe Phật nói vậy, Tướng quân gần tòa

          Là Vi-Đu-Đa-Pha hoàng tử     

        ( Tỳ-Lưu-Ly ) đang dự, thưa liền :

 

        – “ Bạch Thế Tôn ! Các Chư Thiên 

       Não-hại-tâm có, sinh liền tại đây    

          Có thể đánh đuổi hay trục xuất

          Chư Thiên thuộc không não-hại-tâm

              Và không tại đây sanh nhằm ? ”.

 

       A-Nan Tôn-giả đứng gần Như Lai  

          Liền nghĩ ngay : “ Vi-Đu-Đa-Phá

          Hàng vương giả con của Đại Vương

              Còn ta con đấng Pháp Vương,

       Đã đến lúc cả hai phưong như vầy   

          Là hàng các con, nay luận tới,

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  264

 

          Nên nói với Vi-Đú-Đa-Pha :

 

        – “ Này Tướng quân ! Xin hỏi qua

       Phạm vi về vấn đề đà bàn sâu.

          Tướng quân nghĩ thế nào liên hệ

          Lãnh thổ vua Pa-Sế-Na-Đi

              Xa rộng, thuộc vua trị vì

       Vua có thể đánh đuổi đi tức thì,

          Trục xuất vì Sa-môn, Phạm-chí

          Là một vị có đức tu hành,

              Hay không công đức tu hành,

       Có sống Phạm hạnh & không hành hạnh đây ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Điều này có thể 

          Vua Pa-Sế-Na-Đí đuổi đi,

              Hay trục xuất họ tức thì ”.

 

 – “ Tướng quân ! Ngài sẽ nghĩ chi về điều

          Xa rộng ra, có nhiều lãnh thổ

          Là những chỗ không thuộc phạm vi

              Vua Ba-Tư-Nặc trị vì,

       Thì vua có thể đuổi đi các vì

          Sa-môn hay các vì Phạm-chí

          Có công đức hoàn mỹ tu trì

              Hay không công đức tu trì,

       Có thể trục xuất họ đi không nào ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Nói vào điều đó

          Vua rất khó có thể đuổi đi

              Khỏi chỗ vua không trị vì ”.

 

 – “ Tướng quân có biết các vì Chư Thiên ?

          Có nghe nói cõi Thiên Đao Lợi ? ”.

 

    – “ Tôn-giả ! Có nghe tới Chư Thiên

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  265

 

              Cõ trời Tam Thập Tam Thiên.

       Phụ Vương cũng biết về Thiên cung này ”.

 

    – “ Này Tướng quân ! Ở đây ông nghĩ

          Vua Pa-Sê-Na-Đí có quyền

              Đánh đuổi, trục xuất Chư Thiên

       Cõi trời Đao Lợi khỏi Thiên cung này ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Điều đây không thể !

          Vua Pa-Sê-Na-Đí là người,

              Không thể thấy các vị trời

       Làm sao trục xuất, đuổi dời Chư Thiên

          Tại cõi Thiên Ba Mươi Ba ấy ”.

 

    – “ Tướng quân ! Cũng như vậy, suy tầm

              Chư Thiên có não-hại-tâm

       Thì các vị sanh lại nhằm tại đây,

          Không thấy rày Chư Thiên an hảo

          Không có não-hại-tâm như vầy

              Mà không sanh lại tại đây,

       Làm sao tẩn xuất các ngài Chư Thiên

          Không hiện tiền có tâm não-hại

          Không sanh lại tại đây, trải qua ”.

 

              Vua Ba-Tư-Nặc nghe qua  

       Liền thưa Phật : “ Bạch Phật Đà Toàn Tri !

          Tỷ Kheo ấy là gì tên gọi ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Thường gọi A-Nan ”. 

 

        – “ Hoan hỷ thay ! Thật hân hoan !

       Vị Tôn-giả tên A-Nan-Đa này.

          Thuyết đủ đầy nhân duyên như thế   

          Thuyết liên hệ nhân duyên ở trong.

              Bạch Phật ! Có Phạm Thiên không ? ”.  

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  266

 

 – “ Đại Vương ! Sao hỏi có không việc vầy ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Con đây hỏi lại :

          Phạm Thiên có sanh lại tại đây

              Hay không sanh lại tại đây ? ”.     

 

 – “ Đại Vương ! Phạm Thiên nào đầy hại tâm

          Phạm Thiên ấy liền tầm sanh tới,

          Còn đối với các vị Phạm Thiên

              Không não-hại tâm triền miên

       Thời không sanh lại hiện tiền tại đây ”.

 

          Lúc ấy từ bên ngoài vào tới    

          Một vị quan tâu với vua là :

        – “ Tâu Đại Vương ! Sanh-Cha-Da  

       Bà-la-môn thuộc họ A-Ka-Sà

          Đã đến và xin vào yết kiến ”. 

 

          Khi tiếp kiến, vua hỏi vị này :

        – “ Này Bà-La-Môn ! Là ai

       Đã phổ biến câu chuyện này trong cung ? ”.

 

     – “ Tâu lạy đấng Cửu Trùng cao cả !

          Chính Vi-Đu-Đa-Phá (1) Tướng quân ”.

 

              Nhưng Tỳ-Lưu-Ly (1) Tướng quân   

       Lại đổ lỗi ấy về phần đối phương :

 

     – “ Tâu Phụ Vương ! Chính A-Ka-Sá 

          Tức là Sanh-Cha-Dá Bàn-môn

              Trong nội cung, đã phao đồn ”.

 

       Lúc ấy, thị vệ kính tôn thưa là :

    – “ Tâu Đại Vương ! Nay đà đến lúc

          Ngự long xa tiếp tục để đi ”.

     __________________________

 

( ) : Xem chú thích ở Kinh số 87 : Ái Sanh ( Piyajàtika ).

Trung Bộ (Tập 3) Kinh 90 : KANNAKATTHALA  *  MLH –  267

 

              Đức vua Pa-Sê-Na-Đi

       Bạch Phật : “ Bạch Chánh Biến Tri ! Vừa rồi

          Con tùy thời hỏi Ngài nghĩa lý

          Vấn đề nhất-thiết-trí minh quang,

              Thế Tôn trả lời rõ ràng

       Làm con thoải mái, vô vàn hân hoan,

          Được chúng con sẵn sàng chấp nhận.

          Ngài tường tận lại giải thích rành

              Bốn giai cấp sao tịnh thanh ?

       Tiếp theo con hỏi ngọn ngành Chư Thiên

          Rồi Phạm Thiên – Ngài đều giải đáp

          Rất thích hạp, khiến con hân hoan

              Thoải mái, chấp nhận dễ dàng,

       Vì con hoan hỷ, hoàn toàn giải nghi.

          Những điều gì chúng con đã hỏi

          Ngài liền nói tường tận, sâu xa.

 

              Bạch đức Thế Tôn Phật Đà !   

       Chúng con phận sự rất là đa đoan

          Nhiều công vụ còn dang dở cả,

          Xin từ giã Thế Tôn để đi ”.

 

        – “ Đại Vương hãy làm những gì 

       Mà ngài nghĩ phải thực thi, hợp thời ”.

 

          Vua tín thọ những lời Thiện Thệ

          Đứng dậy rồi đảnh lễ Như Lai

              Thân bên hữu hướng về Ngài,

       Đoạn vua rời khỏi nơi này ra đi ./-

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

*  *  *

(  Chấm dứt  Kinh  số 90  :  KANNAKATTHALA   –

KANNAKATTHALA   Sutta  )




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7758)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8804)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2834)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4356)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2632)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7887)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2874)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12497)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2762)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8551)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567