Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

39. Đại Kinh Xóm Ngựa

19/05/202010:19(Xem: 7372)
39. Đại Kinh Xóm Ngựa

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


39. Đại Kinh XÓM NGỰA

( Mahà Assapura sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, đức Thế Tôn Ứng Cúng

          Sống trong vùng dân chúng Ăng-Ga  (1)

              Tại một ấp của Ương-Già  (1)

       Có tên Xóm Ngựa – Át-Sa-Pu-Rà  (2)

          Lúc bấy giờ Phật-Đà cho gọi

          Các Tỷ Kheo và nói ôn tồn :

 

        – “ Các Tỷ Kheo ! Từ ‘Sa-môn’

       Dân chúng thường biết Sa-môn chính là

          Các ông đây . Nếu mà được hỏi :

         ‘Xin hãy nói các ông là ai ?’

              Các ông phải tự nhận ngay :

      ‘Sa-môn’! Hãy gọi như vầy chúng tôi’.

 

          Được danh xưng, đồng thời tự nhận    

          Là Sa-môn , phải gắng xứng danh,

              Suy nghĩ : ‘Ta sẽ thực hành

       Thọ trì những pháp tác thành Sa-môn,

          Tác thành Bà-la-môn các pháp,

          Mới thích hạp danh xưng chánh chân

              Khi ta tự nhận danh phần

Mới là như thật tinh cần Sa-môn.

          Đồ thí chủ kính tôn cung dưỡng

          Mà chúng ta thọ hưởng như là :

     ________________________

 

(1) : Xứ Anga ( Ương-Già )     (2) : Xóm ngựa – Assapura .

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   046

 

              Y phục, vật thực, sàng tòa,

       Dược phẩm trị bệnh… dùng qua thế nào

          Mới có được lớn lao kết quả

          Lợi ích lớn cho cả chúng ta,

              Như vậy thì sự xuất gia

       Không thành vô dụng, đó là công lao. 

 

( Giới hạnh )

 

          Các Tỷ Kheo ! Thế nào để chỉ

          Pháp tác thành Phạm-Chí  (1), Sa-môn ?

             ‘Ta sẽ thành tựu tối tôn

       Về pháp ‘tàm’, ‘quý’ (2), tâm hồn sạch trong’.

 

          Các ông phải hết lòng tu tập

          Để có thể khởi gấp ý này :

            “ Chúng ta thành tựu ở đây

       Về ‘tàm’, ‘quý’ đến mức này làm xong,

          Như vậy đã thành công, vừa đủ

          Chúng ta tự đạt mục đích rồi,

              Là Sa-môn-hạnh sáng ngời,

       Không phải làm nữa, đúng thời huân tu ”.

 

          Trong phạm trù mức độ như thế  

    Các ông tự có thể thỏa lòng.

              Nhưng Ta khuyến cáo các ông

       Về Sa-môn-hạnh ở trong giới điều

          Chớ từ bỏ mục tiêu quý ấy

          Khi còn việc đáng phải làm hơn.

    ____________________________

 

   (1) : Phạm-Chí  hay  Bàn-môn  tức là Bà-La-Môn .

   (2) : Hiri – Tàm : hổ thẹn ( tội lỗi ).

& Ottappa – Quý  : sự ghê sợ ( tội lỗi ).

 

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   047

 

              Thế nào việc đáng làm hơn ?

    – Thân hành phải được chánh chân, tịnh lành,

          Phải minh chánh, chân thành cởi mở,

   Không tìm cớ che giấu vết tỳ.

              Thế nhưng chúng ta không vì

       Thân hành thanh tịnh oai nghi đó mà

          Chê người ta, khen mình mọi lúc.

          Các ông cần tiếp tục tu thêm,

              Các ông có thể khởi lên

       Ý kiến : ‘Ta đã vững bền đường tu,

          Đạt công phu tựu thành ‘tàm’, ‘quý’,

          Thân, khẩu, ý-hành tịnh thanh ngay.

              Cho đến mức độ như vầy

       Đạt Sa-môn-hạnh đủ đầy, xong công.

          Đến mức này, các ông thỏa mãn

          Nhưng căn bản, khuyến cáo các ông :

              Như vậy chưa phải làm xong

       Khi còn việc đáng hết lòng làm hơn.

 

          Sao việc phải làm hơn, đáng quý ?

     – ‘Thân’, ‘khẩu’, ‘ý’, ‘sinh mạng chúng ta’

              Phải được thanh tịnh, an hòa,

       Minh chánh, cởi mở  – được ta hành trì

          Không có gì giấu che, tỳ vết.

          Nhưng trên hết, đừng vì chúng ta

              Được sự thanh tịnh đó, mà

       Khen mình rồi lại tỏ ra chê người.

 

          Các ông phải không rời tu tập

          Không hấp tấp thỏa mãn, vừa lòng,

              Cho rằng mình đã làm xong

       Mức độ vừa đủ nên không tiếp làm.

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   048

 

          Phải trong sạch, có tàm, có quý,

          Thân, khẩu, ý-hành phải tịnh thanh

              Sinh mạng minh chánh, tịnh thanh,

       Tuyên bố, khuyến cáo Ta dành các ông :

         ‘Khi các ông hướng về mục đích

          Sa-môn-hạnh toàn bích ở đây

              Chớ từ bỏ mục đích này

       Khi còn công việc đáng hay phải làm’ .

 

( Hộ trì các căn )

 

          Thế nào việc phải làm hơn thế ?

 – Phải hộ trì triệt để các căn.   

              Khi mắt nhìn thấy sắc trần

       Thì không nắm giữ tướng phần chung, riêng,

          Nguyên nhân gì khiến liền mắt ấy

          Không chế ngự, tham ái, ưu, sầu,

              Ác bất thiện pháp khởi mau

       Ta sẽ chế ngự chính vào nguyên nhân,

   Thực hành phần hộ trì mắt đó.

*  *  *

          Tai nghe tiếng, mũi có ngửi hương,

              Lưỡi hay nếm vị tinh tường,

       Thân cảm thọ xúc mọi đường trải sang,

   Ý nhận thức rõ ràng các pháp…

  Phải hộ trì thích hạp các căn.

              Khi sáu căn gặp sáu trần

       Thì không nắm giữ tướng phần chung, riêng,    

          Nguyên nhân gì sáu phiên căn ấy

          Không chế ngự, tham ái, ưu, sầu,

              Ác bất thiện pháp khởi mau

       Ta sẽ chế ngự chính vào nguyên nhân,

          Thực hành phần hộ trì cho kỹ

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   049

 

          Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân căn.

              Các Tỷ Kheo ! Phải tinh cần

       Cần phải tu tập và cần khởi nhanh

          Ý sai : ‘Ta tựu thành tàm, quý,

          Thân, khẩu, ý, sinh mạng tịnh thanh

              Đã được hộ trì các căn

       Vậy là vừa đủ, là thành tựu đây,

          Đến mức độ như vầy, hoàn tất

          Chúng ta đạt được hạnh Sa-môn

              Không còn gì phải làm hơn,

       Đến đây, thỏa mãn nguồn cơn mong cầu’.

 

          Nhưng chưa đâu ! Như Lai tuyên bố

          Khuyến cáo chỗ thiếu sót các ông

              Hướng đến mục đích tối tôn

       Là Sa-môn-hạnh, hãy còn nhiêu khê,

          Chớ từ bỏ hướng về đích ấy

 Khi còn việc đáng phải làm hơn.

 

( Tiết chế ăn uống )

 

              Thế nào việc đáng làm hơn ?

   – ‘Tiết chế ăn uống’ bảo tồn thân ta.

          Chánh tư duy, chúng ta thọ thực

          Không phải để trang sức, đam mê,

              Không để làm đẹp mọi bề,

       Không để đùa cợt, cận kề đắm say,

          Thọ thực để thân này khỏe mạnh,

          Được bảo dưỡng, được tránh nạn tai,

              Hổ trợ phạm-hạnh. Nghĩ vầy :

      ‘Các cảm thọ cũ diệt rày cho xong,

          Cảm thọ mới ta không cho khởi’

          Không lầm lỗi, ta sống an lành

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   050

 

              Cần phải tu tập thuần thành   

       Đang còn nhiều việc cần nhanh phải làm.

 

( Chú tâm cảnh giác )

 

          Các ông phải ‘chú tâm cảnh giác’

          Ban ngày khi an lạc kinh hành

              Hay lúc ngồi thiền an lành

       Chúng ta phải tẩy sạch thanh tâm hồn

          Khỏi các pháp ẩn tồn chướng ngại.

          Ban đêm lại tỉnh giác khi nằm

              Phải nằm như sư tử nằm

       Nghiêng hông bên phải, giữ tâm an hòa,

          Chân trái ta đặt trên chân phải

          Luôn chánh niệm, thức dậy đúng thời.

              Canh đầu, đi kinh hành rồi,

       Hay ngồi thiền cũng chẳng rời công phu.

          Phải tẩy sạch tâm tư phức tạp

          Khỏi các pháp chướng ngại triền miên,

              Cần phải tu tập cần chuyên

       Tiếp tục những việc đáng liền thực thi.

 

      *  Các Tỷ Kheo ! Mọi thì tỉnh giác

          Giữ chánh niệm, an lạc tự tâm

             Tỷ Kheo đi, đứng, ngồi, nằm

       Đều giữ tỉnh giác, trong tâm biết liền

          Khi tới, lui ; biết mình lui, tới

          Khi nhìn quanh, biết bởi mình làm

             Hay khi co duỗi tay chân

       Mặc y, đi bát  hay cần uống ăn

          Khi nhai, nuốt, nói năng  –  tỉnh giác

          Đại, tiểu tiện, nhổ khạc  –  biết mình

             Như vậy Tỷ Kheo tâm minh

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   051

 

       Chánh niệm tỉnh giác, an bình, thanh cao.

 

( Đoạn trừ các Triền Cái )

 

          Nhưng chưa đâu ! Đừng cho vừa đủ

          Không nên tự thỏa mãn, tự kiêu

              Hướng Sa-môn-hạnh mục tiêu

       Chớ có từ bỏ, nhiều điều cần theo.

 

      *  Các Tỷ Kheo ! Nghiêm trì Giới quý

          Với các căn nhiếp kỹ, hộ trì

             Chánh niệm tỉnh giác trí tri

       Thêm hạnh tri túc, còn gì quý hơn.

          Trang bị đủ những gì cao quý

          Vị ấy lựa vị trí lặng yên

             Như rừng tĩnh mịch, lâm viên

       Gốc cây, khe núi hoặc liền tha ma.

      Thời ngọ thực đã qua, rửa bát

          Ngồi kiết già, an lạc, thẳng lưng

             An trú chánh niệm, lâng lâng

       Tham ái từ bỏ, thoát dần ái tham

          Bỏ sân hận, từ tâm thương xót

          Chúng hữu tình mỗi một cảnh riêng

             Từ bỏ hôn trầm, thụy miên

       Thoát ly khỏi chướng thụy miên, hôn trầm

          Giữ tịnh tâm, hướng về ánh sáng

          Cùng chánh niệm, tỉnh giác, tâm yên

             Gột rửa chúng, được an nhiên

       Từ bỏ  trạo cử  thì liền tịnh thân

          Hết nghi ngờ, phân vân lưỡng lự

   Gột rửa hết  trạo cử, hôn trầm

             Gột rửa tham ái, hận sân

       Đối với thiện pháp, tinh cần hành theo.

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   052

 

          Như ví dụ người nghèo mắc nợ

          Liền chọn nghề, không sợ khó khăn     

             Nhờ sự nỗ lực, tinh cần

       Nghề nghiệp phát đạt, tự thân nên giàu

          Có tiền dư, nợ mau trả dứt

          Nuôi vợ con, quả thực thanh nhàn

             Người ấy nhờ vậy giàu sang

       Sung sướng hoan hỷ, hoàn toàn an nhiên.

 

Ví dụ khác : Bệnh duyên người nọ

          Rất đau đớn, lại khó uống ăn

             Thể lực suy yếu dần dần

       Cơn bệnh trầm trọng hành thân đêm ngày

          Bỗng nhân duyên, gặp thầy gặp thuốc

          Dứt hẳn bệnh, ăn uống tiêu thông

             Thể lực khôi phục như mong

       Hoan hỷ, sung sướng, sống trong an lành.

 

  Hoặc ví dụ một anh bị nhốt

          Trong lao tù, ngục tốt khảo tra

             Đau đớn, sợ hãi tối đa

       Cầu mong thoát khỏi tai qua, nạn lùi

          Bỗng duyên vui, gặp ngài Chánh án

          Xét vô tội, xóa án thả mau

             Tài sản không bị tổn hao

       Thân vẫn khang kiện, ngục lao thoát rồi

          Về lại nhà, bồi hồi nghĩ lại

          Quá sung sướng, thanh thái hân hoan.

 

Ví dụ vào một thời gian

       Có người nô lệ của hàng chủ nhân

          Không tự chủ, bản thân lệ thuộc

          Mất tự do, ràng buộc khó khăn

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   053

 

             Bỗng một hôm, vị chủ nhân

       Tuyên bố trả tự do thân người này

          Quá hoan hỷ, lòng đầy sung sướng

          Người nô lệ tận hưởng niềm vui.

              Ví dụ khác : Có một người

       Giàu, nhiều tài sản, là người lái buôn

          Qua sa mạc mênh mông nguy hiểm

          Thiếu lương thực, khan hiếm nước dùng

             Sợ hãi trong bước đường cùng

       Bỗng gặp ốc đảo, nước trong rất nhiều

          Mấy hôm sau, lại điều may khác

          Khỏi sa mạc, gần đến đầu làng

             Vô sự, sung sướng, vui an

       Khỏi sự nguy hiểm lòng hằng ước mơ.

 

 Các Tỷ Kheo ! Chính nhờ quán niệm

          Vị Tỷ Kheo tự nghiệm, tự tri

             Năm Triền Cái (1) chưa xả ly

       Như là món nợ, bệnh  nguy, ngục đường,

          Như nô lệ, con đường sa mạc,

          Nay trả dứt hết các nợ nần

             Khỏi cơn bệnh dữ hành thân

       Ra khỏi sa mạc, thoát tầng ngục lao

          Năm  triền cái  chừng nào chưa diệt

   Vị Tỷ Kheo mãi miết tinh cần.

 

( Bốn tầng Thiền-na )

 

           Chừng nào khi quán tự thân

       Với năm triền cái  đã cần xả ly

          Do xả ly, tức thì hoan hỷ

    ___________________________________

 

(1) : Năm Triền Cái  – Nivarana  ( xem chú thích trang 103 )

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   054

 

          Do hoan hỷ, tâm được khinh an

             Lạc thọ sinh do khinh an

       Đạt được như thế, tâm an định liền

          Ly ác pháp, Tỷ Kheo ly dục

          Chứng và trú vào mục Nhất Thiền

             Trạng thái hỷ lạc an nhiên

       Sinh do ly dục, tâm chuyên Tứ, Tầm

          Nhất Thiền tâm Tỷ Kheo thấm nhuận

          Như tẩm ướt, sung mãn, tràn nhanh

             Hỷ lạc do ly dục sanh

       Với Tầm, với Tứ thấm quanh mọi thời.

 

 Các Tỷ Kheo ! Như người hầu tắm

          Thật lão luyện, lo sắm sửa mau

             Rắc bột tắm vào trong thau

       Rồi dùng bột ấy nhồi vào nước trong

      Nhào trộn ướt, nhưng không chảy giọt

          Cũng như vậy, với một Tỷ Kheo

             Tẩm nhuận, sủng ướt, thấm theo

       Toàn thân không có chỗ nào còn khô.

          Từ trạng thái sanh do ly dục

   Hỷ lạc cũng đẫm suốt tâm đây.

              Đệ Nhất Thiền, thật lành thay !

       Là Sa-môn-hạnh các thầy cần theo.

 

          Các Tỷ Kheo ! Hành trình tiếp nữa

          Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền

             Diệt Tầm, diệt Tứ được yên

       Thì chứng và trú vào Thiền thứ Hai

          Một trạng thái ra ngoài Tầm, Tứ

          Do Định sinh, nội tỉnh nhất tâm

             Tỷ Kheo ấy đã thấm nhuần

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   055

 

       Tẩm ướt, sung mãn khắp thân của mình

          Do Định sinh, tràn đầy hỷ lạc

          Không chỗ nào hỷ lạc chẳng nhuần.

 

Ví dụ như tại cội nguồn

       Có một hồ nước, nước tuông dâng đầy

         Cả nam, bắc, đông, tây các chỗ

          Không có lỗ thoát nước chảy ra

             Suối nước mát lạnh phun ra

       Làm cho đẫm ướt, thấm qua dâng tràn

          Thỉnh thoảng mưa, hồ càng tẩm ướt

          Không chỗ nào không được tràn dâng

             Tỷ Kheo ấy đã thấm nhuần

       Tẩm ướt, sung mãn khắp thân của mình

          Do Định sinh, tràn đầy hỷ lạc

          Không chỗ nào hỷ lạc chẳng đầy

             Mắt, tai, mũi, lưỡi, tay chân

       Toàn thân không thiếu một căn chi nào. 

 

           Các Tỷ Kheo ! Theo sau đó nữa

          Vị Tỷ Kheo vào cửa thiền tâm

             Ly hỷ trú xả, nhất tâm

       Chánh niệm tỉnh giác, thì thân cảm liền

          Sự lạc thọ, thánh hiền gọi đủ

          Là ‘xả niệm lạc trú’ tâm chuyên

             Chứng và an trú Tam Thiền

       Tỷ Kheo đẫm ướt, thấm tuyền tự thân

          Sự lạc thọ, không cần có hỷ

          Lạc thọ ấy thấm kỹ toàn thân

             Không một chỗ nào trên thân

       Mà Lạc thọ đó không phần thấm vô.

 

          Ta ví dụ : như hồ sen trắng

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   056

 

          Cả sen hồng chen lẫn sen xanh

             Những hoa sen ấy đều sanh

       Từ trong hồ nước, lớn nhanh từng ngày

          Nhưng chúng vẫn chưa ngoi khỏi nước

          Từ gốc rễ đẫm ướt tới đầu

             Toàn thân gốc ngọn thấm sâu

       Tỷ Kheo vị ấy thấm vào giống y

          Với lạc thọ, không đi với hỷ

          Đã thấm kỹ, sung mãn tràn đầy

              Đệ Tam Thiền, thật lành thay ! 

       Là Sa-môn-hạnh các thầy cần theo.

 

        Các Tỷ Kheo ! Hành trình tiếp nữa

          Vị Tỷ Kheo vào cửa định thiền

             Xả lạc , xả khổ ; tâm yên

       Diệt hỷ, ưu ; cảm thọ - liền trước đây

          Chứng và trú vào Thiền Đệ Tứ

          Không khổ, lạc ; không giữ niệm nào

             Thanh tịnh, an lạc tiêu dao

       Như Tỷ Kheo ấy thấm sâu, ướt đầm

          Được thấm nhuần với tâm thuần tịnh

          Và trong sáng, trong chính thân này.

            Các Tỷ Kheo ! Ví như đây

       Có người ngồi, lấy vải dày trắng tinh

          Khắp cả thân, đầu mình trùm cả

          Không chỗ nào mà gã không trùm

             Cũng vậy, Tỷ Kheo thấm nhuần

       Với Tâm Thuần Tịnh gội nhuần khắp nơi.

 

( Ba Minh )

 

          Các Tỷ Kheo ! Ví thời một gã

          Từ làng mình đi quá làng bên

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   057

 

             Từ làng bên lại đi lên

       Đến một làng khác rồi bèn trở lui

          Về làng mình, bùi ngùi nhớ lại

          Cuộc hành trình đã trải đi qua

             Đến làng bên, gặp người ta

       Đủ cả lớn bé, người già, trẻ con

          Tại nơi ấy, ta còn kỷ niệm

          Ngồi nơi nào, chuyện phiếm ra sao

             Rời làng ấy, ta lại vào

       Một làng khác nữa, biết bao chuyện còn

          Gặp người lớn, trẻ con  thôn ấp

          Nói chuyện gì, cao thấp, đứng ngồi

             Trở về làng cũ của tôi

       Lại rất nhiều chuyện nổi trôi hằng ngày.

 

          Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh

          Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền

             Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

 

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

          Túc Mạng Minh, nhớ tới nhiều đời

             Quá khứ với một, hai đời

       Năm chục, ba bốn trăm đời đã qua

          Một ngàn đời hay là hơn nữa

          Một trăm ngàn đời thuở lâu xa

             Hoại kiếp, thành kiếp trải qua

   Vị ấy nhớ lại như là mới đây.

          Tại nơi ấy, tên này ta có

          Thuộc giai cấp, giòng họ thế này

             Uống, ăn, thọ khổ, lạc  rày

       Tuổi thọ như thế, chết ngày ra sao

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   058

 

          Ta tái sinh, nhằm vào làng đó

          Có tên tuổi, giòng họ thế nào

             Cứ thế, nhớ lại biết bao

       Tiền kiếp, tái kiếp không sao đếm đầy.

 

       Các Tỷ Kheo ! Như vầy thí dụ : 

          Một tòa lầu có đủ kiều phù

             Lầu này ở giữa ngã tư

       Một người mắt sáng đến từ phương xa

          Lên thượng đài, anh ta thấy rõ

          Người ra vào các ngõ bốn phương

             Nhiều người qua lại trên đường

       Leo lên đài thượng hay dừng ngã tư

          Những người khác đến từ nhiều hướng

          Đi giữa đường hoặc đứng nhìn chơi

             Chỉ bằng đôi mắt sáng ngời

       Người ấy thấy rõ mọi người dễ thay.

 

          Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh

          Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền

             Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

          Thiên Nhãn Thông, dẫn tới tuệ minh

             Xét về sinh tử chúng sinh

       Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy liền

          Vị ấy biết mối giềng Nghiệp quả

          Người hạ liệt, kẻ cả giàu sang

             Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn

       Đều do hạnh nghiệp trắng đen họ làm.

 

          Gieo ác hạnh về thân, khẩu, ý

          Hoặc phỉ báng các vị Thánh Hiền

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   059

 

             Người này thân hoại, tận duyên     

       Do nghiệp tà kiến, đọa liền súc sinh,

          Các cõi dữ, như sinh địa ngục

          Hoặc đọa xứ, thằng thúc nạn tai.

          * Còn bậc hiền giả, những ai

       Làm những thiện hạnh  ý và lời, thân

          Không phỉ báng Hiền nhân, Thánh hiển

          Tạo nghiệp lành, chánh kiến vô cùng

             Sau khi thân hoại mạng chung 

       Được sinh thiện thú, nhân trung, cõi trời.

 

          Do thiên nhãn, biết đời sống chết

          Người hạ liệt hay kẻ giàu sang

             Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn

       Người này bất hạnh, kẻ bèn gặp may

          Do hạnh nghiệp kẻ này hành động

Có kết quả chẳng giống nhau này,

             Luân hồi tùy nghiệp chuyển xoay

       Không ai tránh khỏi trả vay nghiệp này.

 

          Các Tỷ Kheo ! Như vầy thí dụ :

          Dãy núi lớn đầy đủ nước trong

             Không cấu nhiễm, sạch trắng bong

       Một người mắt sáng sẽ trông rõ đồ

          Những hòn sạn, con sò, hòn đá

          Những con hến, đàn cá tung tăng

             Trong tâm vị ấy nghĩ rằng

       Nhờ mắt sáng, thấy vô ngần điều hay.

 

          Vị Tỷ Kheo thẳng ngay, thuần tịnh

          Tâm định tỉnh, không nhiễm não phiền

             Nhu nhuyến, vững chắc – theo thiền

       Bình thản như vậy, chẳng phiền chẳng ưu.

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   060

 

          Vị Tỷ Khưu hướng tâm đến với

Lậu Tận Minh, dẫn tới biết rành

             Lậu Tận Trí, biết ngọn ngành

       Đây là sự Khổ, nguyên nhân đưa vào

          Đây Khổ Diệt, đường nào diệt khổ

          Biết như thật lậu-hoặc loại này

             Nguyên nhân lậu-hoặc là đây

       Diệt trừ lậu-hoặc, biết ngay con đường.

*

          Nhờ hiểu biết, tận tường nhận thức

          Tâm vị ấy rất mực sáng trong

             Dục-lậu, hữu-lậu  thoát xong

       Thoát vô-minh-lậu, khỏi vòng trói trăn

          Liền hiểu rõ : ‘Tự thân giải thoát

          Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành

             Việc cần làm , đã thi hành

       Sau đời hiện tại, Vô sanh hiển bày’.

 

( Bậc A-La-Hán )

 

          Các Tỷ Kheo ! Như vầy được gọi

          Là Sa-Môn, được gọi Bàn-Môn  (1)

              Là vị ‘đã tắm sạch trơn’,

       Là ‘A-La-Hán’, ‘Thánh nhơn’ thuần hòa,

         ‘Bậc có học’, ‘biết và hiểu rõ’.

 

          Như thế nào gọi đó ‘Sa-Môn’ ?

         –  Là vị hiểu biết nguồn cơn

       Dừng lại các ác, không còn thực thi

          Ác bất thiện pháp vì nguy hiểm

          Làm ô nhiễm, đưa đến tái sinh,

              Đem khổ quả, đáng hãi kinh,

    __________________________________

 

   (1) : Bàn-Môn hay Phạm-Chí  tức là Bà-La-Môn .

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   061

 

       Tương lai đưa đến sự Sinh, chết, già.

   ‘Tỷ Kheo là Sa-Môn’, như vậy.

 

          Còn Bà-La-Môn ấy ra sao ?

              Vị này tẩn xuất ra mau

       Các ác, bất thiện pháp nào phát sinh

          Pháp này đưa tái sinh, ô nhiễm,

          Đem khổ quả nguy hiểm, hãi kinh,

              Tương lai đưa đến sự Sinh,

       Đưa đến già, chết ( vô minh lưu tồn )

  ‘Tỷ Kheo là Bàn-Môn’, như vậy.

 

          Tỷ Kheo ấy xu hướng thanh cao

             ‘Đã tắm sạch sẽ’ là sao ?

      ‘Biết và hiểu rõ’ thế nào ở đây ?

          Tỷ Kheo này nghĩa sao ‘có học’ ?

          Gọi ‘bậc Thánh’ vô học (1) là sao ?

              Gọi ‘A-La-Hán’ (1) là sao ?

 

   –  Vị Tỷ Kheo ấy đã mau xa lìa

           Ác, bất-thiện-pháp kia nguy hiểm

           Làm ô nhiễm, đưa đến tái sinh,

               Đem khổ quả, đáng hãi kinh,

       Tương lai đưa đến sự Sinh, chết, già.

          Như vậy là Tỷ Kheo được gọi

          Cách cao quý với mọi điều trên,

              Xứng danh ‘Bậc Thánh’ đạt nên,

      ‘Bậc A-La-Hán’ vững bền lạc an ”.

    _______________________________

 

( ) : A-La-Hán – Araham  : được định nghĩa là Vô Sanh, Vô Học,

      Ứng Cúng ; là đạo quả cuối cùng trong Tứ Thánh Thinh Văn

      Giác : Tu-Đà-Hoàn (Sot àpatti ), Tư-Đà-Hàm (Sakadàgàmi ),

      A-Na-Hàm (Anàgàmi ), A-La-Hán (Araham) .

      Đây cũng là một trong Thập Hiệu của Đức Phật .

Trung Bộ (Tập 2) Đại Kinh 39 :  XÓM  NGỰA     *  MLH  –   062

 

Đức Thế Tôn nghiêm trang thuyết giảng

          Pháp cao quý viên mãn, minh quang

              Các Tỷ Kheo trong đạo tràng

       Hoan hỷ tín thọ lởi vàng Thế Tôn . /-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

 

 

 

*

*    *

 

 

 

(  Chấm dứt  Kinh số 39  :  Đại Kinh XÓM NGỰA

MAHÀ ASSAPURA   Sutta  )

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7753)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8792)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2831)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4352)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2630)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7883)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12494)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8543)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567