Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

115. Kinh Đa Giới

19/05/202011:29(Xem: 6378)
115. Kinh Đa Giới

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


115. Kinh  ĐA GIỚI

( Bahudhàtuka sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời nọ Thế Tôn Thiện Thệ 

          An trú tại Xá-Vệ thành này

              Sa-Vát-Thí  cũng là đây

       Kỳ Viên Tinh Xá  hôm mai tịnh, hòa

          Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná    (Jetavana - Kỳ Viên)

          Cấp-Cô-Độc Trưởng-giả tín gia

              A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka

       Tín thành dâng đến Phật Đà trước đây.

 

          Tại nơi này Ngài gọi Tăng Chúng :

    – “ Này Tăng Chúng ! Hãy khéo nghe đây ”.

              Chư Tỷ Kheo tại nơi này

       Vâng đáp lời Phật. Rồi Ngài thuyết ngay :

 

    – “ Chúng Tăng này ! Phàm khi nói tới

          Sợ hãi gì sanh khởi ở đây

              Thời tất cả sợ hãi này

       Sanh khởi cho những kẻ đầy ngu si,

          Không phải cho các vỉ hiền-trí.

          Thất vọng, hoạn nạn bị khởi dần

              Là sanh khởi cho ngu nhân

       Không phải cho những hiền nhân trí tài.

 

          Ví như, này Chúng Tăng ! Nếu có

          Từ ngôi nhà bằng cỏ, lợp tranh

              Tia lửa bùng phát hoành hành

       Cháy cả nhà cạnh hay quanh nhà này 

          Ngôi nhà lầu được xây chắc chắn

          Trét trong, ngoài che nắng che mưa,   

              Che chở khói gió chẳng lùa

       Chốt khóa gài kỹ, song thưa vững vàng,

          Dù chắc chắn, kỹ càng như vậy

          Nhưng cũng bị thiêu cháy tan tành.

 

              Các Tỷ Kheo ! Điều sẵn dành  

       Cho kẻ ngu muội khi sanh khởi điều  

          Sợ hãi, thất vọng, nhiều hoạn nạn

          Không phải cho các hạng hiền nhân.

              Kẻ ngu sợ hãi mọi phần,

       Người hiền trí chỉ sợ nhân chẳng lành.

          Kẻ ngu muội thường sanh thất vọng,

          Người hiền trí thì sống vững vàng

              Không có thất vọng, hoang mang.

       Kẻ ngu hoạn nạn ngập tràn khổ đau.

          Người trí không vấp vào hoạn nạn.

 

          Các Tỷ Kheo ! Căn bản điều này

              Các ông cần học tập đây : 

      ‘Chúng tôi thành người đầy hiền minh

          Biết suy tư, tự mình tìm biết’

          Các Tỷ Kheo ! Phải thiệt học vầy ”.

 

              Nghe Thế Tôn nói như vầy

       A-Nan Tôn-giả bạch Ngài như sau :

 

    – “ Bạch Phật ! Mức độ nào vừa đủ

          Để nói : ‘Vị Phích-Khú là người

              Hiền trí, biết suy tư nơi

       Sự tìm hiểu’ đó như lời Thế Tôn ? ”.

 

    – “ A-Nan-Đa ! Sa-môn Thích-tử

          Khi thiện xảo về Xứ, giới điều

              Thiện xảo về duyên khởi nhiều

       Thiện xảo xứ, phi xứ… đều giỏi giang,

          Này A-Nan ! Đến mức độ vậy

          Đủ để nói : ‘Người ấy trí hiền

              Biết suy tư tìm hiểu chuyên ”.

 

(Giới)

 

 – “ Bạch Phật ! Đến mức độ nào nên nói là :

         ‘Tỷ Kheo đà thiện xảo về giới ? ”.

 

     – “ A-Nan ! Mười tám giới trải qua  

              Nhãn giới, sắc giới, cùng là

       Nhãn-thức giới – nhĩ giới và giới thanh,

          Nhĩ-thức giới – ngọn ngành tỷ giới

          Hương giới, tỷ-thức giới hiểu qua.

              Thiệt giới, vị giới, cùng là

       Thiệt-thức giới – thân giới và có ngay

          Xúc giới này và thân-thức giới.

          Ý & pháp giới, ý-thức giới vầy.

              A-Nan-Đa ! Đến mức này

       Vừa đủ để nói : ‘Vị này Tỷ Kheo

          Thiện xảo điều về giới’ là thế ”.

 

    – “ Bạch Thiện Thệ ! Có pháp môn nào

              Khác hơn để nói như sau :

      ‘Tỷ Kheo thiện xảo giới’ sâu rộng vầy ? ”.

 

     – “ A-Nan này ! Đều có thể có

          Sáu giới đó : Địa-giới, thủy, phong,

              Hỏa, không, thức-giới gồm trong.

       Khi nào biết, thấy viên thông đủ đầy

          Sáu giới này, vừa đủ để bảo :

         ‘Tỷ Kheo đó thiện xảo giới’ thông ”.

 

        – “ Nhưng kính bạch Đức Thế Tôn !

       Có thể nào có pháp môn khác vầy

          Đủ để nói : ‘Vị này Phích-Khú

          Thiện xảo giới’ tròn đủ rõ ràng ? ”. 

 

        – “ Có thể có, này A-Nan !

       Sáu giới : Lạc, khổ, hỷ hoan giới, và

          Ưu giới, xả giới, vô minh giới,

          Biết, thấy được sáu giới ở đây,

              Cho đến mức độ như vầy

       Vừa đủ để nói : ‘Vị này Tỷ Kheo

          Thiện xảo về giới’ đều như thế ”.

 

    – “ Bạch Thiện Thệ ! Pháp môn nào mà

              Khác hơn, đủ để nói là :

      ‘Tỷ Kheo thiện xảo giới đà trải qua ? ”.

 

    – “ A-Nan-Đa ! Có thể có thực

          Sáu giới : dục & ly-dục giới, và

              Sân & vô sân giới, cùng là

       Hại giới, bất hại giới mà có ra ”.

 

    – “ Bạch Phật Đà ! Có giới nào khác

          Tỷ Kheo đạt thiện xảo giới này ? ”.

 

        – “ A-Nan ! Có thể có ngay

       Ba giới : dục giới, sắc giới và thứ ba

          Đó chính là cõi vô-sắc-giới.

          Biết, thấy rõ ba giới ở đây

              Cho đến mức độ như vầy

       Đủ để nói : ‘Tỷ Kheo đây đúng là

          Thiện xảo về giới là như thế ”.

 

    – “ Bạch Thiện Thệ ! Pháp môn khác nào  

              Vừa đủ để nói như sau :

      ‘Tỷ Kheo thiện xảo giới mau, dễ dàng ? ”.

    – “ Này A-Nan ! Cũng có hai giới :

          Hữu vi giới, vô vi giới sau ”.

 

(Xứ)

 

         – “ Bạch Phật ! Đến mức độ nào  

       Được nói : ‘Vị thiện xảo vào giới đây ? ”.

 

     – “ A-Nan này ! Sáu nội & ngoại xứ

          Mắt duyên sắc thanh tú dễ thương, 

              Tai và tiếng, mũi và hương,

       Lưỡi và vị, thân & xúc thường đi đôi,

          Ý và pháp trong ngoài xứ ấy. 

          Cho đến khi biết, thấy như vầy

              Thì cho đến mức độ này

       Đủ để nói : ‘Tỷ Kheo đây giỏi về

          Thiện xảo cả sáu bề vừa kể ”.

 

(Duyên khởi)

 

          Bạch Thiện Thệ ! Đến mức độ nào

              Để nói “ ‘Vị Tỷ Kheo nào

       Thiện xảo về duyên khởi sâu như vầy ? ”.

 

     – “ A-Nan-Đa ! Vị này biết rõ :

          Cái này có, thì có cái kia,

              Cái này sanh, sanh cái kia,

       Cái này không có, cái kia không rồi !

          Cái này diệt, kia thời cũng diệt

          Tức vô minh mãi miết duyên hành,

              Hành duyên thức, thức duyên nhanh

       Với danh sắc. Danh sắc dành duyên qua

          Lục nhập. Và lục nhập duyên xúc,

          Xúc duyên thọ. Tiếp tục thọ này

              Duyên ái. Ái duyên thủ ngay,

       Thủ duyên hữu. Rồi hữu này duyên sanh,       

          Do duyên sanh – già, chết, sầu, khổ,

          Bi, ưu, não… sẽ khởi sanh ra.

 

              Như vậy, này A-Nan-Đa !

       Là sự tập khởi trải qua tức thì

          Của toàn bộ những gì khổ uẩn.

          Nhưng bất luận do diệt trú, và

              Sự ly tham hoàn toàn, mà

       Của vô minh ấy, hành đà diệt nhanh,

          Do các hành diệt, danh sắc diệt,

          Danh sắc diệt, lục nhập diệt ngay,

              Lục nhập diệt, xúc diệt vầy,

       Xúc diệt, thọ diệt – Thọ đây diệt thời

          Ái diệt. Ái diệt thời thủ diệt,

          Do thủ diệt, hữu diệt tức thì,

              Do hữu diệt, sanh diệt đi,

       Sanh diệt – lão, tử, ưu, bi, khổ, sầu,

          Và não, hại… mau mau đoạn diệt.

          Như vậy là đoạn diệt hoàn toàn

              Của khổ uẩn này rõ ràng,

       Đến như vậy, này A-Nan ! Hiểu vầy :

         ‘Tỷ Kheo này thiện xảo duyên khởi ”.

 

(Xứ, Phi xứ)

 

          Bạch Thế Tôn ! Do bởi những gì

              Mà cho đến mức độ chi

      ‘Tỷ Kheo thiện xảo Xứ, Phi xứ vầy ? ”.

 

     – “ A-Nan-Đa ! Ở đây câu chuyện   

          Tỷ Kheo biết : ‘Sự kiện này là

              Không hiện hữu, không xảy ra

       Khi một Phích-Khú trải qua tựu thành

          Chánh kiến thật an lành như vậy

          Mà vị ấy xem hành thuộc về

              Thường còn, việc ấy không hề

       Không thể xảy đến vấn đề kể trên.

          Vị ấy biết, nêu lên việc đó

          Có hiện hữu và có xảy ra.

 

              Khi một phàm phu nào mà

       Đến các hành và xem ra có hoài.

          Sự kiện này có thể xảy đến

          Vị ấy biết : ‘Sự kiện ở đây

              Không có xảy ra như vầy,

       Không có hiện hữu việc đây mọi thời.

 

          Khi một người tựu thành chánh kiến

          Lại có thể đi đến các hành,

              Ý niệm lạc thọ khởi nhanh,

       Sự kiện như vậy không dành xảy ra’.

          Vị ấy biết rõ là : ‘Việc đó,

          Sự kiện đó là có xảy ra,

              Có hiện hữu. Khi người là

       Phàm phu đến các hành qua vấn đề

          Với ý niệm thuộc về lạc thọ,

          Sự kiện này là có xảy ra’.

 

              Vị ấy lại biết rằng là :

      ‘Sự kiện ấy không xảy ra, đồng thời

          Không hiện hữu. Khi người nào đấy

          Thành tựu chánh kiến, lại trải qua

              Có thể đến các pháp mà

       Ý niệm tự ngã khởi ra như vầy.

          Sự kiện này không có xảy đến’.

          Vị ấy biết : ‘Sự kiện này là

              Có hiện hữu, có xảy ra’.

       Phàm phu đến các pháp qua vấn đề

          Với ý niệm thuộc về tự ngã

          Việc ấy đã có xảy ra ngay.

              Vị ấy biết rõ như vầy :

      ‘Không có hiện hữu, không rày xảy ra

          Sự kiện là một người thành tựu

          Chánh kiến lại có thể giết ngay

              Sinh mạng mẹ cha công dày,  (1)

       Giết A-La-Hán, bậc đầy tịnh thanh,  (1)

          Hoặc ác tâm chẳng lành cố tạo

          Làm thân Phật chảy máu (1), và hằng

              Cố ý phá hòa hợp Tăng  (1)

       Sự kiện như vậy có chăng thực hành ?

          Nhưng phàm phu chẳng lành, cùng kiệt

          Có thể làm năm việc kể trên’.

 

              Vị ấy lại biết rõ liền :    

      ‘Việc này không có hiện tiền xảy ra

          Khi người mà thành tựu chánh kiến

          Có biểu hiện đề cao tán dương

              Một Đạo Sư khác bất tường.

       Nhưng phàm phu có thể thường đề cao

          Đạo Sư khác. Do vào việc đó

          Sự kiện này là có xảy ra’.

              Vị ấy lại biết rõ là :   

 

      ‘Sự kiện đó không xảy ra bao giờ

          Không hiện hữu, chẳng cơ hội, khiến

          Một sự kiện xuất hiện đồng thời

    ____________________________

 

(1) : Năm đại trọng tội ( Ngũ nghịch đại tội ) gồm :

     –  Giết mẹ.     –  Giết cha.     –  Giết vị A-La-Hán.

    –  Làm thân Phật chảy máu.  –  Chia rẽ Tăng Chúng.

              Hai vị Chánh Giác trên đời,

       Hoặc hai Chuyển-luân-vương nơi cõi trần

          Cùng một lần trong một thế giới.

          Sự kiện với một Vua Chuyển-luân

              Có thể xuất hiện một lần

       Không sau không trước cõi trần này thôi.

          Và vị ấy đồng thời biết rõ

         ‘Sự kiện này không có xảy ra :

              Khi một nữ nhân (đàn bà)

       Có thể chứng đắc Phật Đà Thế Tôn.

          Sự kiện ấy thì không có thể,

          Nhưng thân nam có thể tựu thành

              Bậc Chánh Đẳng Giác tịnh thanh.

 

       Tương tự, người nữ không thành Sắc-Ka  (1)

         (Vua cõi Trời Băm Ba – Đế Thích)  (1)

          Nhưng nam nhân khi tích phước lành

              Có thể Đế Thích đạt thành.

       Người nữ không thể trở thành Ma Vương,

          Bậc Đại Phạm Thiên Vương, tương tự

          Thì người nữ cũng không thể thành.

              Bốn điều trên quả không dành

       Cho người nữ (đang mang thân đàn bà).

 

          Phật, Đế Thích và Ma Vương đó

          Cùng Phạm Thiên – duy có đạt thành

              Khi là nam nhân tu hành.

       Vị này điều ấy biết rành xảy ra.

    _________________________

 

(1) : Vua Trời SAKKA – Đế Thích hay Thích Đề Hoàn Nhơn, chủ

       quản  Cung Trời  Đao  Lợi ( Tavatimsa ) hay còn gọi là Cõi

      Trời Tam Thập Tam Thiên  vì gồm có 33 nơi. Đây thuộc tầng 

      trời thứ 2 trong 6 tầng trời Dục giới.     

          Vị ấy biết rõ là : ‘Sự kiện

          Không xảy ra, không hiện hữu vào

              Khi một thân-ác-hành nào

       Có thể sinh quả báo bao nhiêu điều

          Rất đáng yêu, khả hỷ, khả lạc,

          Điều sai lạc không thể xảy ra’.

              Vị ấy cũng biết rõ là :

      ‘Sự kiện không có xảy ra rành rành :

          Khẩu hay ý-ác-hành có thể

          Sanh quả báo mỹ lệ, đáng yêu

              Khả hỷ, khả lạc… mọi điều.

       Trái lại, ác báo có nhiều trái ngang

          Không khả ái, không mang hỷ, lạc,

          Việc này chắc chắn có xảy ra’.

 

              Vị ấy biết rõ rằng là : 

      ‘Thân & khẩu & ý-thiện-hành mà thực thi

          Trong mọi thì, sinh ra quả báo

          Thật khả ái, an hảo, vui vầy

              Có xảy ra sự kiện này’.

       Biết rõ rằng : ‘Sự kiện đây cũng là

          Không xảy ra, không hiện hữu có`

          Khi một người nào đó hành trì
Thân & khẩu & ý-ác-hành, thì

       Do nhân & duyên đó, sau khi từ trần

          Có thể sinh các tầng Thiên giới,

          Sinh thiện thú, phúc lợi cõi người.

              Với sự kiện như vậy, thời

       Không có xảy đến, không đời nào đâu !

 

          Hành trì vào các ác hành đó

          Do nhân đó, duyên đó – sau khi 

              Thân hoại mạng chung, tức thì

       Sanh vào cõi dữ, man di cõi người,

          Đọa lạc nơi địa ngục ác tệ…

          Việc như thế là có xảy ra’.

 

              Vị ấy biết rõ rằng là : 

      ‘Một người nào hành trì qua điều lành

          Thân & khẩu & ý-thiện-hành như vậy

          Do nhân ấy, duyên ấy – sau khi

              Thân hoại mạng chung, tức thì

       Được hưởng phước báo những chi đã làm,

          Sinh lên làm Chư Thiên, cõi phúc

          Hoặc tiếp tục làm người cao sang…

              Không thể có việc trái ngang

       Sanh cõi dữ, địa ngục, toàn khổ đau’.

 

          Căn cứ vào những sự kiện đó

          Thời không có hoặc có xảy ra 

              Cho đến mức độ ấy mà

       Vừa đủ để nói : ‘Đúng là Tỷ Kheo

          Thiện xảo theo Xứ và Phi Xứ ”.

 

(Kết luận)

 

          Được nghe đấng Điều Ngự thuyết ra

              Vị Tôn-giả A-Nan-Đa

       Thưa rằng : “ Bạch đức Phật Đà Như Lai !

          Hy hữu thay ! Thật là vi diệu !

          Pháp môn này được hiểu tên gì ? ”.

 

        – “ Này A-Nan ! Hãy thọ trì

       Pháp môn ‘Đa Giới’ vốn hy hữu này.

          Pháp môn đây cũng gọi ‘Pháp chuyển’,

          Là ‘Pháp kính’ phương tiện vững bền,

              Là ‘Trống bất tử’ gióng lên,

      ‘Vô thượng chiến thắng’ cũng tên pháp này ”.

 

           Đức Thế Tôn trình bày thong thả 

           A-Nan-Đa Tôn-giả, cùng hàng

               Tỷ Kheo Tăng nơi đạo tràng

       Hoan hỷ tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*   *

 

( Chấm dứt Kinh số 115 :  ĐA GIỚI  –

BAHUDHÀTUKA  Sutta )

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7753)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8798)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2832)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4352)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2631)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7884)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12494)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8545)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567