Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

68. Kinh Nalakapàna

19/05/202010:31(Xem: 6896)
68. Kinh Nalakapàna

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com



68. Kinh NALAKAPÀNA
( Nalakapàna  sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, Đức Thế Tôn vô ngại
          An trú tại xứ Kô-Sa-La  (1)
            ( Còn có tên Câu-Tát-La )
       Tại Na-La-Ká-Pa-Na (2) nơi này,
          Trong rừng cây tên Pa-Lá-Sá (2)
          Cùng với Chúng Săng-Gá (3) tịnh, hòa .
 
              Lúc bấy giờ, đã xảy ra
       Nhiều Thiện-nam-tử danh gia, sang giàu,
          Cùng nhiều vị thanh cao vương-tử
          Vì lòng tin Điều Ngự Phật Đà,
              Từ bỏ gia đình, xuất gia,
       Như ngài A-Nậu-Lâu-Đà ôn nhu
        ( Cũng chính là A-Nu-Rút-Thá )
          Kim-Bi-Lá và Nan-Đi-Da ,
              Pha-Gu , Kun-Đá-Thá-Na ,
       Rê-Va-Tá , A-Nan-Đà … kể qua .
    _____________________________
 
( ) : Vương quốc Kosala  (Câu-Tát-La  hay Kiều-Tất-La ) có Kinh
     đô là Savatthi ( Xá Vệ ) dưới sự cai trị của vua Pasanadi – Ba-
    Tư-Nặc .( Kỳ Viên Tinh Xá cũng nằm trong địa phận Thành Xá
    Vệ này) . Tiều quốc Kapilavathtu (Ca-Tỳ-La-Vệ) của Đức Phật
    cũng đặt dưới sự bảo hộ của Vương quốc Kosala .
 
(2) : Địa phương tên Nalakapàna , rừng cây tên Palasa .
(3) : Sangha  phiên âm Tăng-Già , là Chúng Tỷ Kheo đệ tử Phật.
      Bản chất Tăng-Già là thanh tịnh và hòa hợp .
(4) : Bảy vị cùng xuất gia : Anuruddha  (A-Nậu-Lâu-Đà hay A-Na-
      Luật ), Kimbila , Nandiya , Bhagu , Kundadhana , Revata (Ly-
      Bà-Đa ) và Ananda ( A-Nan ).
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  438
 
          Cùng số khác Thiện-gia nam-tử
          Có danh tiếng ; tuần tự xuất gia .
 
              Bấy giờ, Thế Tôn Phật Đà
       Đang  ngồi giữa Chúng Tăng Già vây quanh
          Giữa bãi cỏ, trời xanh gió mát .
          Đức Phật nhân vì các vị này 
            ( Các Thiện-gia nam-tử đây )
       Hỏi Tỷ Kheo Chúng : “ Các thầy Tỷ Kheo !
          Thiện-nam-tử họ theo Ta cả,
          Vì lòng tin Ta, đã xuất gia,
              Sống không gia đình, lìa nhà,
       Này Tỷ Kheo Chúng ! Trải qua như vầy
          Thiện-gia nam-tử này các vị
          Có hoan hỷ trong Phạm-hạnh chăng ? ”.
 
              Nghe Phật hỏi, nhưng Chư Tăng   
       Vẫn ngồi im lặng, không hằng nói chi .
          Lần thứ hai, rồi thì ba bận     
          Các Tỷ Kheo cũng vẫn lặng yên .
              Đức Thế Tôn suy nghĩ liền :
     ‘ Chi bằng Ta hãy hiện tiền hỏi qua
          Chính các vị Thiện-gia nam-tử ’.
 
          Rồi Điều Ngự câu hỏi đặt ra
          Cho nhóm A-Nú-Rút-Tha
    ( Ngài dùng “A-Nậu-Lâu-Đà” gọi chung ) :
 
    – “ Này các ông A-Nu-Rút-Thá !
          Các ông đã xuất gia, toại lòng,
              Có hoan hỷ Phạm-hạnh không ? ”.
 
– “ Rất hoan hỷ, bạch Thế Tôn Phật Đà ! ”. 
 
    – “ Lành thay ! Những thiện-gia nam-tử !
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  439
 
          Vì lòng tin nên tự xuất gia,
              Sống không gia đình, ly gia
       Hoan hỷ trong Phạm-hạnh và siêng tu .
 
          Các A-Nu-Rút-Tha ! Trong lúc
          Tuổi trẻ đẹp, hạnh phúc, vui luôn,
              Tóc đen nhánh, tuổi thanh xuân,
       Có thể hưởng thụ, sống buông lung đời .
          Nhưng các ông quyết rời, từ bỏ,
          Lìa cửa nhà, giòng họ, gia đình,
              Tự nguyện sống không gia đình .
 
       Không vì mệnh lệnh buộc mình xuất gia,
          Không bị vua sai mà làm thế,
          Không vì kẻ trộm cướp bức thân,
              Không vì sợ hãi , nợ nần,
       Không vì thất nghiệp hay cần nương thân .
          Có phải rằng các ông suy nghĩ :
       ‘ Ta đang bị già, chết, sầu, bi,
              Sanh, khổ, não … những mối nguy
       Áp bức, chi phối mọi thì, mọi nơi .
          Nhưng ta thời luôn mong sẽ đạt,
          Chấm dứt các khổ uẩn vây ta ’.
              Này các A-Nú-Rút-Tha !
       Có phải do vậy, xuất gia tu hành ? ”.
    – “ Thưa vâng, bạch Trọn Lành Thiện Thệ ”.
 
    – “ Và như thế, theo các ông thì
              Các ông cần phải làm gì ?
   *  Ly bất thiện pháp và ly dục liền !
          Nếu không chứng an nhiên hỷ lạc
          Hay một trạng thái khác , tịnh yên,
              Dục tham chiếm, trú tâm liền .
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  440
 
       Rồi sân, trạo cử, thụy miên hôn trầm …
          Xâm chiếm tâm và an trú đấy .
          Hối quá, nghi, giải đãi, bất an …
              Xâm chiếm tâm và trú an .
 
       Khi nào chưa được hoàn toàn trải qua
          Ly bất thiện pháp và ly dục,
          Thời các vị không lúc nào an .
              Khi nào ly dục hoàn toàn
       Ly bất thiện pháp, mọi đàng tịnh thanh
          Thì vị ấy chứng nhanh hỷ lạc
          Hay một trạng thái khác tịnh yên,
              Thời các triền-cái nói trên
       Không chiếm tâm được, không liền trú qua .
 
          Các A-Nú-Rút-Tha ! Ly dục,   
          Bất thiện pháp cùng lúc cũng ly,
              Thì chứng hỷ lạc tức thì
       Hay trạng thái khác phát huy, tịnh hòa .
 
          Các A-Nậu-Lâu-Đà ! Thường nghĩ
          Về Như Lai trong trí thế nào ?
              Như về các lậu-hoặc nào
       Liên hệ phiền não có sau khởi vầy,
          Đáng sợ hãi, đưa ngay lập tức
          Đến quả khổ dị thục này đây,
              Hướng sanh, già, chết tương lai,
       Lậu-hoặc chưa được Như Lai đoạn trừ .
          Nên sau khi suy tư, phân tích
          Ta thọ dụng một pháp , an như .
               Sau khi phân tích, suy tư  
       Nhẫn thọ một pháp, rồi trừ bỏ đi .
          Rồi sau khi suy tư phân tích
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  441
 
          Lại một pháp trầm nịch diệt xong,
              Các ông nghĩ thế phải không ? ”.
 
 – “ Bạch Đại Giác ! Chúng con không nghĩ vầy.
          Mà nghĩ ngay : “ Với Ngài Thiện Thệ
          Các lậu-hoặc liên hệ não phiền
              Sanh khởi hậu hữu , căn nguyên
       Đáng sợ hãi, đưa khổ liền đến nhanh
          Quả dị thục, hướng sanh, già, chết,
          Trong tương lai ; diệt hết điều này .
              Các lậu-hoặc được Như Lai
       Đoạn trừ tất cả, mảy may không còn .
 
          Khi Thế Tôn suy tư phân tích 
          Một pháp tích cực chọn thọ dùng .
              Sau khi nghĩ, phân tích cùng,
       Nhẫn thọ một pháp . Không dùng trừ đi
          Một pháp khác . Nghĩ suy phân tích
          Một pháp thuộc chướng nghịch diệt ngay ”.
 
        – “ Này các ông ! Thật lành thay ! 
       Những điều vừa được nói đây, rõ ràng
          Các lậu-hoặc liên quan phiền não
          Sanh khởi hậu hữu đáng sợ thay !
              Đưa quả khổ dị thục ngay,
       Hướng đến già, chết tương lai như vầy
          Được Như Lai đoạn trừ, trốc rễ
          Ví như thể thân cây Sa-la
              Bị cắt tận gốc rễ, và
       Không thể sanh khởi, trải qua chết dần .  
          Hoặc như phần ngọn cây vừa kể
          Bị chặt đứt, không thể lớn thêm .
              Này các ông ! Đoạn diệt êm
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  442
 
       Lậu-hoặc liên hệ ngày đêm não phiền,
          Được Như Lai diệt liền tận rễ
          Nó không thể sanh khởi tương lai .
              Do vậy, sau khi Như Lai
       Suy tư, phân tích, pháp nay thọ dùng.
          Sau khi dùng phân tich, nghĩ ngợi
          Nhẫn thọ với một pháp ở đây,
              Rồi từ bỏ, đoạn trừ ngay
       Một pháp, khi đã giải bày, suy tư .
          Vậy theo như các ông nghĩ đó          
          Do thấy rõ mục đích thế nào
              Ta giải thích tái sanh vào 
       Của các đệ tử khi sau từ trần ,
          Mà nói rằng : ‘ Vị này sinh lại
          Ở chỗ kia , vị ấy chỗ này ”. 
        – “ Bạch Phật ! Với chúng con đây
       Y pháp, nương tựa bậc Thầy Thế Tôn,
          Hướng Thế Tôn, Ngài là lãnh đạo
          Các Pháp-bảo căn bản dựa Ngài .
              Bạch Thế Tôn ! Tốt lành thay !
       Nếu được Ngài giảng ý này rõ ra ,
          Sau khi nghe Phật Đà giảng giải 
          Các Tỷ Kheo theo vậy thọ trì ”.
        – “ Này các ông ! Phải nhớ ghi :
       Như Lai thuyết giáo không vì lợi riêng,
          Không hề chuyên gạt lừa quần chúng,
          Không sử dụng nịnh hót lấy lòng,
              Mục đích tài lộc cũng không,
       Không vì trọng vọng, chẳng mong lợi quyền .     
          Không phan duyên theo ý nghĩ quấy :
       ‘ Làm như vậy, quần chúng biết ta ’.
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  443
 
              Nên Như Lai giải thích ra
       Tái sinh đệ tử đã qua từ trần,
          Mà nói rằng : ‘ Vị này sinh lại
          Ở chỗ kia , vị ấy chỗ này ”. 
              Có những Thiện-nam-tử đây
       Tín thọ cao thượng do đầy lòng tin
          Với hoan hỷ thật tình cao thượng
          Sau  khi nghe, sẽ hướng tâm qua
              Sự ‘như thật’ – Ta-tha-ta .    
       Này các A-Nú-Rút-Tha ! Như vầy     
          Là hạnh phúc và đầy an lạc,
          Hưởng lâu đời cho các vị này .
 
          *  Các A-Na-Luật ! Ở đây
       Tỷ Kheo nghe nói một thầy Tỷ Kheo
          Đã mệnh chung, tên nêu như thế .
          Đấng Thiện Thệ tuyên bố : “ Vị đây
              An trú Chánh Trí sâu dày ”.
       Khi nghe về Tôn-giả này như sau :
        ‘ Có giới hạnh thanh cao như vậy,
          Có trí tuệ như vậy, rỡ ràng
              Có pháp như vậy, minh quang
       An trú & giải thoát nghiêm trang như vầy,
          Tỷ Kheo này mỗi khi nhớ tới
          Lòng tin tưởng, hạnh giới chánh chân,
              Bố thí, trí tuệ, đa văn,   
       Của vị Tôn-giả, thì hằng chú tâm
          Trên ‘như thật’, và thầm cảm thụ
          Tỷ Kheo sống lạc trú trải qua .  
 
          *  Này các A-Nú-Rút-Tha !
       Vị Tỷ Kheo có nghe qua như vầy :
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  444
 
         ‘Một Tỷ Kheo mới đây đã mất
          Có tên thật được biết rõ ràng .
              Phật nói về vị này rằng :
     “ Diệt kiết sử năm hạ phần đích danh,
          Vị ấy đã hóa sanh, nhập diệt,
          Không có việc trở lại đời này ”.
          *  Lại có Tỷ Kheo ở đây
       Mệnh chung, được đức Như Lai nói là :
        “ Sau khi đã diệt ba kiết sử,
          Sau khi tự làm nhẹ bớt đi
             Cả ba độc : Tham, sân, si,
       Chứng Nhất Lai, phải trải đi một lần
          Sinh trở lại cõi trần, tu tiếp
          Rồi mãn nghiệp, diệt tận khổ đau ”.
          *  Lại nữa, vị Tỷ Kheo nào
       Mệnh chung, Phật dạy với câu nói là :
        “ Sau khi đã diệt ba kiết sử,
          Quả Dư Lưu đã tự chứng vào
           ( Cũng gọi Thất Lai thanh cao )
       Bảy lần vị ấy sinh vào thế gian,
          Không còn nữa con đàng đọa lạc,
          Chắc chắn chứng Chánh Giác sau này ”.
              Khi Chúng Tỷ Kheo ở đây
       Được nghe các Tôn-giả này như sau :
        ‘ Có giới hạnh thanh cao như vậy,
          Có trí tuệ như vậy, rỡ ràng
              Có pháp như vậy, minh quang
       An trú & giải thoát nghiêm trang như vầy,
          Chúng Tỷ Kheo mỗi khi nhớ tới
          Lòng tin tưởng, hạnh giới chánh chân,
              Bố thí, trí tuệ, đa văn,   
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  445
 
       Của các Tôn-giả, thì hằng chú tâm
          Trên ‘như thật’, và thầm cảm thụ
          Chúng Tỷ Kheo lạc trú trải qua .  
 
          *  Này các A-Nậu-Lâu-Đà !
       Về phần Ni Chúng tịnh, hòa – cũng y .
          Khi có Tỷ Kheo Ni nào mất
          Được Đức Phật tuyên bố đặc thù :
             “ Vị ấy đã chứng an như 
       Bốn tầng Thánh quả - từ Tu-Đà-Hoàn,
          Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm quả,
          A-La-Hán - bậc đã Vô Sanh ”.
 
              Đức Phật tuyên bố đành rành .
       Tỷ Kheo Ni đó phong thanh nghe là :
        ‘ Tôn Ni giới hạnh bà như vậy,
          Có trí tuệ như vậy, rỡ ràng
              Có pháp như vậy, minh quang
       An trú & giải thoát nghiêm trang như vầy,
          Chúng Ni này mỗi khi nhớ tới
          Lòng tin tưởng, hạnh giới chánh chân,
              Bố thí, trí tuệ, đa văn,   
       Của Tôn Ni ấy, thì hằng chú tâm
          Trên ‘như thật’, và thầm cảm thụ
          Chúng Ni ấy lạc trú trải qua .  
 
          *  Này các A-Nú-Rút-Tha !
       Cũng vậy, đối với Nam và Nữ nhân
          Là Cư Sĩ – mãn phần, quá cố
          Phật cũng có tuyên bố lên rằng :
           “ Một số Cư Sĩ tinh cần,
       Chuyên tu, cũng chứng như Tăng, Ni vầy ”.
          Chính điều này, Nữ, Nam Cư Sĩ
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  446
 
          Nhớ những vị tín, giới chánh chân,
              Bố thí, trí tuệ, đa văn .
       Chú tâm trên ‘như thật’ –  hằng trú an .
          Và như vậy, bốn hàng đệ tử  
          Cũng được dự bậc Thánh uy nghi .
              Này các ông ! Phải nhớ ghi :           
       Như Lai thuyết giáo không vì lợi riêng,
          Không hề chuyên gạt lừa quần chúng,
          Không sử dụng nịnh hót lấy lòng,
              Mục đích tài lộc cũng không,
       Không vì trọng vọng, chẳng mong lợi quyền .     
          Không phan duyên theo ý nghĩ quấy :
       ‘ Làm như vậy, quần chúng biết ta ’.
              Nên Như Lai giải thích ra
       Tái sinh đệ tử đã qua từ trần,
          Mà nói rằng : ‘ Vị này sinh lại
          Ở chỗ kia , vị ấy chỗ này ”. 
              Có những Thiện-nam-tử đây
       Tín thọ cao thượng do đầy lòng tin
          Với hoan hỷ thật tình cao thượng
          Sau  khi nghe, sẽ hướng tâm qua
              Sự ‘như thật’ – Ta-tha-ta .    
 
       Này các A-Nú-Rút-Tha ! Như vầy     
          Là hạnh phúc và đầy an lạc,
          Hưởng lâu đời cho các vị này ”.
              Thế Tôn thuyết giảng như vầy
       Chúng Tăng tín thọ , lời Ngài khâm tuân .
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
*   *   *
 
(  Chấm dứt  Kinh số 68  :  NALAKAPÀNA  – 
NALAKAPÀNA  Sutta  )
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/10/2010(Xem: 2606)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7777)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2839)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12376)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2719)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8444)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
01/10/2010(Xem: 9887)
Có, không chỉ một mà thôi, Tử, sinh đợt sóng chuyển nhồi tạo ra. Trăng nay, trăng cũng đêm qua, Hoa cười năm mới cũng hoa năm rồi. Ba sinh, đuốc trước gió mồi, Tuần hoàn chín cõi, kiến ngồi cối xay. Tới nơi cứu cánh sao đây ? Siêu nhiên tuệ giác, vẹn đầy “Sa ha” (Thích Tâm Châu dịch )
01/10/2010(Xem: 4231)
Là con người, ai cũng có đủ tính tốt và xấu, nên thực tế rất khó nhận định về tính cách của chính mình, của một người khác, huống chi là nói về tính cách của cả một dân tộc. Tuy vấn đề phức tạp và đôi khi mâu thuẫn, nhưng tôi cũng xin cố gắng đưa ra một số nét tiêu biểu của người Nhật.
28/09/2010(Xem: 5503)
Bao gồm nhiều ngạn ngữ dân gian phản ánh đời sống tâm lý của người dân TQ trong xã hội xưa, “ Tăng quảng hiền văn” là sự thể hiện tư tưởng của Nho Giáo, Đạo Giáo, Lão Giáo, mang tính triết lý cao. 1 Tích thì hiền văn, hối nhữ truân truân, tập vận tăng quảng, đa kiến đa văn. Lời hay thuở trước, răn dạy chúng ta, theo vần cóp nhặt, hiểu biết rộng ra. 2 Quan kim nghi giám cổ, vô cổ bất thành kim. Xem nay nên xét xa xưa, ngày xưa chẳng có thì giờ có đâu. 3 Tri kỷ tri bỉ , tương tâm tỷ tâm. Biết mình phải biết người ta, đem lòng mình để suy ra lòng người. 4 Tửu phùng tri kỷ ẩm, thi hướng hội nhân ngâm. Gặp người tri kỷ ta nâng cốc, thơ chỉ bình ngâm mới bạn hiền. 5 Tương thức mãn thiên hạ, tri tâm năng kỷ nhân. Đầy trong thiên hạ người quen biết, tri kỷ cùng ta được mấy người. 6 Tương phùng hảo tự sơ tương thức, đáo lão chung vô oán hận tâm. Gặp lại vui như ngày mới biết, chẳng chút ăn năn trọn tới già.
27/09/2010(Xem: 3090)
Có người không hiểu Phật, than Phật giáo tiêu cực, nói toàn chuyện không vui. Từ đó Tăng ni chỉ được nhớ tới trong những ngày buồn như đám tang, cúng thất, cầu an cho người sắp đi. Rồi thì người ta còn đi xa hơn, xuống thấp hơn một tí, là khi nói đến Tăng ni là họ tưởng ngay đến những người mất sạch, một cọng tóc cũng không có. Thậm chí họ cho mình cái quyền châm chọc khiếm nhã khi nhìn thấy Tăng ni đâu đó. Một chuyện mà có uống mật gấu họ cũng không dám làm đối với những người thế tục cạo trọc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567