Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

111. Kinh Bất Đoạn

19/05/202011:28(Xem: 6345)
111. Kinh Bất Đoạn

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


111. Kinh  BẤT ĐOẠN

( Anupada sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời nọ Thế Tôn Thiện Thệ 

          An trú tại Xá-Vệ thành này

              Sa-Vát-Thí  cũng là đây

       Kỳ Viên Tinh Xá  hôm mai tịnh, hòa

          Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná

          Cấp-Cô-Độc Trưởng giả tín gia

              A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka

       Tín thành dâng đến Phật Đà trước đây.

 

          Tại nơi này Ngài gọi Tăng Chúng :

 

    – “ Này Tăng Chúng ! Hãy khéo nghe đây ”.

 

              Chư Tỷ Kheo tại nơi này

       Vâng đáp lời Phật. Rồi Ngài thuyết ngay :

 

    – “ Chúng Tăng này ! Sa-Ri-Pút-Tá  (1)

         (Tức là Xá-Lợi-Phất vị này)

              Là bậc Hiền trí đức tài

       Là bậc Đại-tuệ cao dày rộng sâu

          Bậc quảng-tuệ, thanh cao hỷ-tuệ,

          Bậc tiệp-tuệ, lợi-tuệ uy nghi,

              Bậc quyết-trạch-tuệ diệu tri.

       Cho đến nửa tháng, Sa-Ri-Pút-Tà

          Bất-đoạn-pháp quán ra cao đẹp.

 

          Các Tỷ Kheo ! Do phép quán này

    _________________________

 

(1): Tôn-giả Sariputta – Xá-Lợi-Phất là vị Đại đệ tử của Đức Phật,

được tôn xưng là Đệ nhất Trí Tuệ hay vị Tướng Quân Chánh Pháp.

              Của Sa-Ri-Pút-Tá đây,

       Này Tỷ Kheo Chúng ! Ở đây hiểu là

          Do Sa-Ri-Pút-Ta ly dục,

          Rồi tiếp tục bất-thiện-pháp ly,

              Chứng đạt, an trú tức thì

       Sơ Thiền, trạng thái cực kỳ vui an,

          Do ly dục, có tầm có tứ,

          Những pháp thuộc Thiền thứ nhất này

              Như tầm, tứ, hỷ lạc… hay

       Nhất tâm, xúc thọ, tưởng này, tư, tâm,

          Dục, thắng giải, tinh cần, niệm, xả,

          Và tác ý. Tất cả pháp này

              Được an trú bất-đoạn ngay.

 

       Sa-Ri-Pút-Tá biết ngay những gì

          Khi chúng khởi lên thì biết cả,

          Khi an trú, biết cả thời kỳ

              Khi chúng bị đoạn diệt đi.

       Sa-Ri-Pút-Tá tường tri rõ vầy :

         ‘Các pháp ấy trước đây không có

          Ở nơi ta, nay có hiện thời,  

              Sau khi chúng hiện hữu rồi

       Chúng bị đoạn diệt’. Mọi nơi mọi thì

          Đối với chúng, Sa-Ri-Pút-Tá

          Cảm thấy chả luyến ái chút nào,

              Không chống đối, không lụy vào,

       Độc lập, giải thoát, dứt bao buộc ràng,

          Tâm trú an, không có hạn chế.  

 

          Và như thế, Sa-Ri-Pút-Ta

              Biết : ‘Sự giải thoát trải qua

       Còn hơn thế nữa, và ta còn nhiều

          Việc phải làm những điều hơn thế’.

 

          Các Tỷ Kheo ! Không nệ nghịch duyên

              Ông ấy diệt tứ, tầm liền

       Chứng và an trú Nhị Thiền minh quang,

          Một trạng thái vui an (hỷ lạc)

          Do định sanh, không các tứ, tầm

              An nhiên nội tĩnh nhất tâm

       Và những pháp thuộc Thiền tâm thứ nhì

          Như nội tĩnh, đồng thì hỷ, lạc,

          Nhất tâm hoặc xúc, thọ, tưởng phần

              Tâm, dục, thắng giải, tinh cần,

       Niệm, xả, tác ý – những phần pháp đây

          An trú ngay bất-đoạn thế đó !

 

          Xá-Lợi-Phất biết rõ điều là :

             ‘Còn có giải thoát trải qua

       Còn hơn thế nữa. Với ta vẫn còn

          Nhiều việc phải làm tròn trước đã !’.

          Rồi Sa-Ri-Pút-Tá tinh cần

              Ly hỷ trú xả các phần,

       Chánh niệm tỉnh giác thì thân cảm liền

          Sự lạc thọ, Thánh hiền gọi đủ

          Là ‘xả niệm lạc trú’, an nhiên

              Chứng và an trú Tam Thiền.

 

       Tiếp tục ông ấy xả liền khổ, vui,

          Diệt hỷ ưu trước đã cảm thọ

          Chứng, trú ở Tứ Thiền tịnh thanh,

              Không khổ & lạc, xả niệm nhanh.

       Những pháp thuộc Tứ Thiền danh như là :

          Bất khổ & lạc thọ và xả, thọ,

          Vô quán niệm tâm đó tịnh thay, 

              Nhờ niệm và nhất tâm đây,

       Cùng xúc, thọ, tưởng, dục này, tư, tâm,

          Thắng giải, niệm, tinh cần, tác ý…

          Được Sa-Rí-Pút-Tá ở đây

              Đã an trú bất-đoạn ngay.

 

       Rồi Xá-Lợi-Phất biết ngay những gì

          Khi chúng khởi lên thì biết cả,

          Khi an trú, biết cả thời kỳ

              Khi chúng bị đoạn diệt đi.

       Sa-Ri-Pút-Tá tường tri rõ vầy :

         ‘Các pháp ấy trước đây không có

          Ở nơi ta, nay có hiện thời,  

              Sau khi chúng hiện hữu rồi

       Chúng bị đoạn diệt’. Mọi nơi mọi thì

          Đối với chúng, Sa-Ri-Pút-Tá

          Cảm thấy chả luyến ái chút nào,

              Không chống đối, không lụy vào,

       Độc lập, giải thoát, dứt bao buộc ràng,

          Tâm trú an, không có hạn chế.  

 

          Và như thế, Sa-Ri-Pút-Ta

              Biết : ‘Sự giải thoát trải qua

       Còn hơn thế nữa, và ta còn nhiều

          Việc phải làm những điều hơn thế’.

 

          Các Tỷ Kheo ! Rồi kế tiếp liền

              Sa-Ri-Pút-Tá vượt lên

       Hoàn toàn sắc-tưởng, vững bền diệt tiêu.

          Chướng-ngại-tưởng mọi điều đối trị,

          Không tác ý với dị-tưởng riêng.

              Nghĩ rằng : ‘Hư không vô biên’

       Chứng, an trú Không-vô-biên Xứ liền,

          Và những pháp thuộc riêng của Xứ

          Không-vô-biên, đơn cử : hư không,

              Vô-biên-xứ-tưởng, một lòng,

       Và xúc, thọ, tưởng, dục đồng tư, tâm,

          Thắng giải, niệm, tinh cần, tác ý,

          Và xả… được Sa-Rí-Pút-Ta

              An trú bất đoạn trải qua,

       Những pháp Sa-Rí-Pút-Ta biết liền

          Khi chúng mới khởi lên, trú đó,

          Khi chúng bị diệt bỏ, trừ ngay

              Sa-Ri-Pút-Tá lúc này

       Những pháp đã được trình bày trên đây,

          Những pháp này với Xá-Lợi-Phất

          Cảm thấy thật chẳng luyến ái nào

              Không chống đối, không lụy vào,

       Độc lập, giải thoát, dứt bao buộc ràng,

          Tâm trú an, không có hạn chế.  

 

          Và như thế, Sa-Ri-Pút-Ta

              Biết : ‘Sự giải thoát trải qua

       Còn hơn thế nữa, và ta còn nhiều

          Việc phải làm những điều hơn vậy’.

 

          Xá-Lợi-Phất khi ấy an hòa

              Không-vô-biên-xứ vượt qua

       Nghĩ rằng : ‘Đích thực Thức là vô biên’

          Chứng, trú Thức-vô-biên-xứ nọ.

          Các Tỷ Kheo ! Sau đó trải qua

              Tỷ Kheo Sa-Ri-Pút-Ta

       Thức-vô-biên-xứ vượt qua tức thì

          Nghĩ : ‘Không có vật chi’ – chứng, trú

          Vào Vô-sở-hữu-xứ tầng này,

              Những pháp thuộc về Xứ đây :

       Vô-sở-hữu-xứ-tưởng này, nhất tâm,

          Xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, thắng giải,

          Dục, niệm, xả, tác ý, tinh cần…

              Được Xá-Lợi-Phất cân phân

       An trú bất đoạn. Những phần pháp ni

          Được Sa-Ri-Pút-Ta biết tới

          Khi chúng mới khởi lên, trú an.

              Khi chúng đoạn diệt không còn

       Sa-Ri-Pút-Tá với toàn pháp đây

          Không luyến ái, không rày chống đối,

          Độc lập, không có trói buộc nào,

              Giải thoát, không hệ lụy nào,

       Tâm không hạn chế khi vào trú an.

 

          Xá-Lợi-Phất biết rằng : ‘Còn có

          Sự giải thoát hơn đó nhiều lần

              Còn làm nhiều việc phải cần’.

 

       Này Tỷ Kheo Chúng ! Tinh cần trải qua

          Rồi Sa-Ri-Pút-Ta tuần tự

          Vượt hẳn Xứ Vô-sở-hữu ni,

              Tưởng-xứ Phi-tưởng-phi-phi

       Chứng và an trú tức thì, uy nghi.

          Với chánh niệm, Sa-Ri-Pút-Tá

          Xuất khỏi định ấy cả, thấy ngay

              Thuộc quá khứ các pháp này

       Bị sự biến hoại, diệt ngay chẳng chầy.

         ‘Như vậy các pháp này trước đó

          Đã không có nơi ta, thì nay

              Lại có hiện hữu như vầy,

       Sau khi hiện hữu, chúng rày diệt đi.          

          Và Sa-Ri-Pút-Ta đối với

          Những pháp vừa nói tới, thấy là

              Không có luyến ái xảy ra,

       Độc lập, không chống đối và thảnh thơi,

          Không trói buộc, đồng thời giải thoát,

          Không hệ lụy, an lạc trú đây

              Với tâm không hạn chế này.

       Sa-Ri-Pút-Tá biết ngay điều là :

         ‘Còn giải thoát sâu xa hơn thế,

          Còn nhiều việc cần để thực hành’.

 

              Các Tỷ Kheo ! Biết rõ rành

       Sa-Ri-Pút-Tá vượt nhanh tức thì

          Khỏi Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ

          Chứng và trú Diệt Thọ Tưởng đây,

              Thấy biết với trí tuệ đầy

       Các lậu-hoặc bị diệt ngay cấp kỳ.

 

          Với chánh niệm, Sa-Ri-Pút-Tá

          Xuất khỏi định ấy, đã thấy ngay :

              Thuộc quá khứ các pháp này

       Bị sự biến hoại, diệt ngay chẳng chầy.

         ‘Như vậy các pháp này trước đó

          Đã không có nơi ta, thì nay

              Lại có hiện hữu như vầy,

       Sau khi hiện hữu, chúng rày diệt đi.       

          Và Sa-Ri-Pút-Ta đối với

          Những pháp vừa nói tới, thấy là

              Không có luyến ái xảy ra,

       Độc lập, không chống đối và thảnh thơi,

          Không trói buộc, đồng thời giải thoát,

          Không hệ lụy, an lạc trú đây

              Với tâm không hạn chế này.

       Sa-Ri-Pút-Tá biết rày thâm sâu :

         ‘Không có giải thoát nào vô thượng

          Hơn thế nữa. Về hướng tương lai

              Không có việc phải làm hoài

       Nhiều hơn thế nữa !’. Và này Chúng Tăng !

 

          Nếu nói năng một cách chân chánh

          Có thể nói phẩm hạnh người mà

              Tu trì nỗ lực trải qua

       Niềm tin Giáo Pháp thiết tha sâu dày,

          Chính người đây là một đích tử

          Của Thế Tôn Điều Ngự Như Lai,

              Sinh ra từ miệng của Ngài,

       Sinh ra từ Pháp, Pháp đây hóa thành,

          Thừa tự Chánh Pháp lành chân thật,

          Không thừa tự vật chất xấu xa.

              Nói về Sa-Ri-Pút-Ta

       Chính là đích tử Phật Đà, cận bên,

          Với phẩm hạnh như trên liệt kể.

          Các Tỷ Kheo ! Như thế hiểu là

              Sa-môn Sa-Ri-Pút-Ta

       Chân chánh chuyển Pháp luân, mà Như Lai

          Đã chuyển vận, hoằng khai Chánh Pháp ”.

 

          Với bài pháp Phật thuyết giảng ra 

              Chúng Tăng hoan hỷ sâu xa

       Tín thọ lời Đức Phật Đà dạy khuyên ./- 

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*  *   *

( Chấm dứt Kinh số 111 :  BẤT ĐOẠN  –  ANUPADA  Sutta )  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7758)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8804)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2834)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4354)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2631)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7886)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2874)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12497)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2759)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8551)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567