Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

123. Kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu Pháp

19/05/202011:31(Xem: 7731)
123. Kinh Hy Hữu Vị Tằng Hữu Pháp

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


123. Kinh HY HỮU VỊ TẰNG HỮU PHÁP

( Acchariya -Abbhùtadhamma sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, đức Thế Tôn Thiện Thệ            

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ – trú qua  (1)

              Tinh xá Chê-Tá-Vá-Na  (2)

       Do Cấp-Cô-Độc tín gia cúng dường.

 

          Với lệ thường vào Thành khất thực

          Sau thọ thực, Chư Tăng tựu vào

              Trong Thị-giả-đường, cùng nhau

       Bàn bạc câu chuyện hướng vào sự duyên.

 

    – “ Này Chư Hiền ! Thật là hy hữu !

          Thật là vị tằng hữu (3), lành thay !

              Đại thần thông lực sâu dày,

       Đại uy lực của bậc Thầy Nhân Thiên.

          Đức Thế Tôn mãn viên trí lự

          Biết Chư Phật quá khứ nhiều đời,

              Đã nhập Niết-bàn thuận thời,

       Hý luận, chướng đạo – thảnh thơi dứt rồi,

          Đã chấm dứt luân hồi sinh tử,

          Thoát ly sự khổ não dẫy đầy.   

     _____________________________

 

(1) : Thành Xá-Vệ  – Savatthi.      (2) : Jetavanavihàra  – Kỳ Viên

 Tinh Xá do Trưởng giả Cấp-cô-độc – Anathapindika cúng dường. 

(3) : Vị tằng hữu pháp : Pháp chưa từng có.

 

             ‘Chư Phật sanh thời như vầy,

       Danh tánh, tộc tánh như vầy viên dung,

          Giới hạnh cùng pháp hạnh như vậy,

          Tuệ hạnh vậy, trú hạnh như vầy,

              Các Ngài giải thoát như vầy ”.

 

       Khi nghe nói vậy thì ngài A-Nan

          Bảo các Tỷ Kheo rằng : “ Đúng thế !

          Hy hữu thay Thiện Thệ Như Lai !

              Chư Hiền ! Vị-tằng-hữu thay !

       Pháp vị tằng hữu Như Lai đủ đầy ”.

 

          Câu chuyện này giữa chừng gián đoạn.

          Đức Thế Tôn vào khoảng chiều tà

              Từ trong Thiền định sâu xa

       Xả định đứng dậy từ hòa an nhiên.

          Thị-giả-đường Ngài liền đến đó

          Sau khi đến, ngồi chỗ soạn riêng

              Thế Tôn khi đã ngồi yên

       Nhìn các Phích-Khú, Ngài liền hỏi ngay :

 

    – “ Các Tỷ Kheo ! Ở đây hội tụ

          Các Phích-Khú đã nói chuyện gì ?

              Chuyện gì bị gián đoạn đi ? ”.

 

 – “ Bạch Thế Tôn ! Sau ngọ thì ăn xong

          Chúng con tụ họp trong hòa hiệp

          Tại nơi này và tiếp theo sau

              Câu chuyện được khởi lên mau :

      ‘Thật là hy hữu bàn vào sự duyên

          Đức Thế Tôn mãn viên uy lực

          Biết Chư Phật quá khứ tuổi tên

             (Sau đó kể hết như trên)

       Câu chuyện Chư Phật khởi lên như vầy ”.

 

          Phật bảo ngài A-Nan Tôn-giả :

 

    – “ A-Nan-Đa ! Diễn tả điều này

              Hãy nói lên nhiều nữa thay !

       Đặc tánh hy hữu Như Lai như vầy,

          Vị tằng hữu Như Lai sở đắc ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Tận mặt con nghe

              Tận mặt ghi nhớ mọi bề

       Thế Tôn giảng dạy vấn đề xảy ra :

         ‘A-Nan-Đa ! Chánh niệm tỉnh giác

          Đức Bồ-tát đã được sinh ra

              Trong Thiên Chúng Tu-Si-Ta

      (Tức Cung Trời Đâu-Suất-Đà nơi ni)’.

          Bạch Phật ! Con thọ trì sự việc

          Đức Bồ-tát siêu việt sinh ra

              Trong Thiên chúng Tu-Si-Ta

       Chuyện chưa từng có, Phật Đà diệu vi !

 

          Bạch đức Chánh Biến Tri ! Tận mặt

          Con đã nghe, tận mặt nhớ ghi :

             ‘Bồ-tát an trú mọi thì

       Chánh niệm tỉnh giác – Tu-Si-Ta này’.

          Con thọ trì việc đây hy hữu,

          Vị tằng hữu của đức Thế Tôn.

 

              Con tận mặt nghe Thế Tôn

       Đã nói, con nhớ mãi không quên, rằng :

         ‘Đức Bồ-tát trú an Thiên giới

          Tu-Si-Ta cho tới trọn thời

              Thọ mạng Đâu Suất cõi trời.

       Đến lúc Bồ-tát nhập nơi thai bào

          Tức nhập vào mẫu thai giáng thế.

          Bạch Thiện Thệ ! Con đã thọ trì

              Sự việc hy hữu diệu kỳ

       Một vị-tằng-hữu của vì Thế Tôn.

 

          Ngài dạy tiếp : ‘Nơi trời Đâu-Suất

          Vị Bồ-tát được thuật như vầy :

              Đến thời giáng thế nhập thai

       Hào quang vô lượng diệu oai nhiệm huyền

          Vượt oai lực chư Thiên cùng khắp

          Các thế giới khó gặp, siêu nhiên

              Thế giới Ma Vương, Phạm Thiên

       Cả thế giới thấp, chỉ tuyền chúng dân

          Các Sa-môn, thành phần Phạm-chí

          Các hoàng tử, các vị đại thần.

 

              Cho đến cảnh giới giữa chừng

       Không có nền tảng, các tầng tối tăm

          Rất u ám quanh năm suốt tháng

          Dù mặt trời ánh sáng chói lòa

              Mặt trăng ánh sáng tỏa xa

       Cũng không thể chiếu thấu qua cõi này.

 

          Luồng hào quang từ đây : Đâu Suất

          Đã chiếu suốt những cõi xa xăm

              Chúng sinh cảnh giới tối tăm

       Nhờ hào quang đó bỗng tầm thấy nhau

          Thốt lên rằng : 'Lần đầu mới biết

          Có chúng sinh khác biệt ở đây'.

 

              Mười ngàn thế giới chuyển xoay

       Rung động rất mạnh, hiện đầy hào quang

          Rất thần diệu, sáng toàn thế giới

          Hy hữu với vị tằng hữu đây

              Của Thế Tôn. Bồ-tát này

       Nhập mẫu thai có bên ngoài không trung   

 

 

          Bốn Thiên Tử canh chừng bốn hướng

          Với ý nghĩ : Ngăn chướng ngại nào

              Loài người, phi nhơn đâu đâu

       Không thể hãm hại nhằm vào vị đây.

 

            Khi Bồ-tát mẫu thai đã nhập

          Mẹ Bồ-tát nghiêm mật giữ gìn

              Giới hạnh, tăng trưởng đức tin

       Sát, đạo, dâm, tửu tự mình tránh xa

          Không hai lưỡi, ba hoa, vọng ngữ

          Không nói lời ác ngữ đọa trầm.

 

              Bà lại không khởi dục tâm

       Đối với bất cứ nam nhân người nào

          Dù người này có tâm ái nhiễm

          Luôn tìm kiếm phương cách cận thân.

              Thân khoan khoái, hoan hỷ tâm

       Bà có thể thấy trong tầm thai nhi

          Thấy đầy đủ tứ chi, các khiếu

          Mọi bộ phận không thiếu thứ chi,

 

              Ví như viên ngọc lưu ly

       Rất là quý giá, sánh bì bảo châu

          Rất sáng đẹp, không màu, trong suốt

          Có tám mặt, đã được khéo mài

              Chẳng trầy trụa, rực rỡ thay !

       Lấp lánh chói lọi đêm ngày sáng trưng

          Các sợi giây xâu từng lần một

          Sợi màu vàng, sợi trắng, đỏ, xanh

              Một người đôi mắt tinh anh

       Nhìn vào hòn ngọc, thấy rành bảo châu

          Là báu vật chẳng đâu thấy có

          Các sợi giây vàng, đỏ, trắng, xanh

              Được xâu lần lượt khéo rành

       Thấy được màu sắc long lanh ngọc này.

          Cũng như vậy, mẹ ngài thấy rõ

          Bồ-tát thai đang có trong mình.

 

                 Ngài nói tiếp : ‘Rồi sự tình

       Khi vị Phật mẫu hạ sinh bảy ngày

          Thì mệnh chung, sinh ngay Đâu Suất

          Cõi thiên cung giới luật giữ hoài,  

              Bởi bà không thể mang thai

       Một chúng sinh khác sau Ngài giáng sinh.

          Bạch Thế Tôn ! Thật tình hy hữu !

          Vị tằng hữu của Thế Tôn Ngài.

 

             Mang thai mười tháng kéo dài,

         Khi sinh Bồ-tát ban mai ánh hồng,

          Không nằm như phần đông thai phụ

          Bà đứng dựa đại thụ hạ sanh

                Giây phút chào đời qua nhanh

       Chư Thiên đỡ lấy an lành hài nhi

          Trước khi các thị tỳ đón nhận.

            Bốn Thiên Tử kính cẩn bồng ngài

              Đặt trước bà mẹ, thưa ngay :

     "Hoàng hậu hoan hỷ, sinh rày vĩ nhân".

 

             Ngài nói tiếp : ‘Pháp thân thanh tịnh

          Vị Bồ-tát không dính chất dơ

              Khi từ bụng mẹ chào đời

       Không bị uế nhiễm, sáng ngời tinh nguyên

          Giống như viên ma-ni bảo ngọc

          Ba-la-nại vải tốt đặt lên

              Cả hai đều sạch tinh nguyên

 

 

       Cả ngọc và vải tương liên đôi bề,

          Ngọc không hề làm dơ tấm vải

          Tấm vải quý chẳng hại ngọc dơ.

                Có hai giòng nước bấy giờ

       Từ hư không đổ tắm cho sạch ngài’. 

.      

            Ngài nói tiếp : ‘Thiện tai pháp nhĩ !

          Sau khi sinh thì vị hài nhi

              Đứng vững, hai chân bước đi

       Bảy bước theo hướng thuận tùy Bắc phương

          Ngài nhìn khắp mười phương vô ngại

          Tay chỉ đất, tay lại chỉ trời

              Thốt ra tiếng vọng muôn nơi

       Như ngưu vương rống, với lời tuyên ngôn :

         "Ta là bậc tối tôn cõi thế

          Khắp ba cõi không thể hơn Ta

              Đời sống cuối cùng trải qua

       Không tái sanh nữa, Phật-Đà chứng tri".

 

             Một hào quang diệu kỳ sáng chói

          Chiếu khắp mọi thế giới xa xăm

              Chúng sinh cảnh giới tối tăm

       Nhờ hào quang đó bỗng tầm thấy nhau

          Thốt lên rằng : 'Lần đầu mới biết

          Có chúng sinh khác biệt ở đây'.

              Mười ngàn thế giới chuyển xoay

       Rung động rất mạnh, hiện đầy hào quang

          Rất thần diệu, sáng toàn thế giới

          Hy hữu với vị tằng hữu ni

              Của Thế Tôn, Chánh Biến Tri

       Con luôn cung kính thọ trì việc đây ”.

 

    – “ Do vậy, này A-Nan ! Nên biết

          Hãy thọ trì sự việc nêu đây

              Một sự hy hữu nghiêm oai

       Sự vị tằng hữu Như Lai có vầy.

          A-Nan này ! Nội dung điều đó

          Được biết đến cảm thọ khởi lên

              Nơi Thế Tôn, được biết liền

       Rồi chúng an trú, hiện tiền biết ngay.

          Khi điều này đã được biết đến

          Chúng đi đến biến hoại, mất ngay

              Các tưởng được biết đến vầy,

       Các tầm tiếp tục khởi ngay lên rồi,

          Được biết đến, chúng thời an trú

          Rồi chúng tự biến hoại, mất đi.

              A-Nan-Đa ! Hãy thọ trì

       Là việc hy hữu của vì Đạo Sư,

          Vị tằng hữu của Như Lai có ”. 

 

    – “ Các cảm thọ, bạch đức Thế Tôn !

              Đã khởi lên nơi Thế Tôn

       Được biết đến, và do trong biết vầy

          Chúng an trú, ở đây biết vậy

          Chúng đi đến biến hoại, mất đi. 

              Bạch Thế Tôn ! Con thọ trì  

       Sự việc hy hữu của vì Như Lai,

          Vị tằng hữu của Ngài như thế ”. 

 

          Đấng Thiện Thệ chấp nhận lời này.

              Các Tỷ Kheo đang ở đây

       Hoan hỷ tín thọ lời ngài A-Nan ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

( Chấm dứt Kinh số 123 : HY HỮU VỊ TẰNG HỮU PHÁP   –

ACCHARIYA-ABBHÙTA  Sutta )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7753)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8799)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2832)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4352)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2631)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7884)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12494)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8546)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567