Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

40. Tiểu Kinh Xóm Ngựa

19/05/202010:19(Xem: 7959)
40. Tiểu Kinh Xóm Ngựa

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com



40. Tiểu Kinh XÓM NGỰA
( Cùla Assapura sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời nọ , Thế Tôn Ứng Cúng
          Sống trong vùng dân chúng Ăng-Ga  (1)
              Tại một ấp của Ương-Già  (1)
       Có tên Xóm Ngựa – Át-Sa-Pu-Rà  (2)
          Lúc bấy giờ Phật-Đà cho gọi
          Các Tỷ Kheo và nói ôn tồn :
 
        – “ Các Tỷ Kheo ! Từ ‘Sa-môn’ (3)
       Dân chúng thường biết Sa-môn chính là
Các ông đây. Nếu mà được hỏi :
         ‘Xin hãy nói các ông là ai ?’
              Các ông phải tự nhận ngay :
    _______________________________
 
( ) & (2) : Xem chú thích ở Đại Kinh Xóm Ngựa  trang 107.
(3) : SA-MÔN – Samana. Phật dạy có 4 hạng Sa-Môn :
   a/  Thắng Đạo Sa-Môn :  chỉ cho những bậc hành đạo thù thắng,
      có khả năng tự giác như Chư Phật, gọi là Đại Sa-Môn.
   b/ Thuyết Đạo Sa-Môn  : chỉ những vị Tỷ Kheo siêng năng tu học  
   giáo pháp Phật-Đà. Sau đó, có khả năng khéo phương tiện giảng
   dạy cho mọi người hướng về con đường chân chính, cuộc sống có
   niềm vui, làm các việc lành, hiếu kính, nhận rõ Khổ – Tập – Diệt
– Đạo, loại trừ Tham  sân  si.
   c/ Mạng Đạo Sa-Môn : chỉ các vị Tỷ Kheo sống theo Chánh Pháp
tu tập Giới-Định-Tuệ. Nhờ công đức tu tập mà thuyết phục mọi 
     người đến với Đạo bằng thân giáo.
   d/ Ô Đạo Sa-Môn ( hay còn gọi  Hoại Đạo Sa-môn  hay  Vi Đạo
     Tác Uế ) :  chỉ những vị  Tỷ Kheo  có hình  tướng  bên  ngoài,
nhưng bên trong thì  tà vọng, dối trá, làm  những  việc  ô uế,
     trộm cắp của người, bôi nhọ Đạo Pháp.
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 40 :  XÓM  NGỰA  *  MLH  –   064
 
      ‘Sa-môn’! Hãy gọi như vầy chúng tôi’.
 
          Được danh xưng, đồng thời tự nhận    
Là Sa-môn, phải gắng xứng danh,
              Phải tự tu tập, thực hành
       Những pháp môn xứng đáng thành Sa-Môn.
          Chúng ta theo pháp môn tu tập
          Danh xưng ta mới thật chánh chân
              Như thật việc tự nhận rằng
Sa-Môn danh tự. Và phần trước nay
          Thọ cúng dường đủ đầy các thức
Là y phục, vật thực, sàng tòa,
              Dược phẩm trị bệnh cũng là,
Được kết quả lớn, mới là lợi to.
          Sự xuất gia có cho thành quả
Không vô dụng, kết quả lớn lao.
 
              Các Tỷ Kheo ! Như thế nào
       Tỷ Kheo không thực hành vào pháp môn
          Để xứng bậc Sa-Môn như vậy ?
       – Tỷ Kheo ấy tham dục tâm, lòng
              Không được đoạn diệt ngoài trong
       Có tâm sân hận và lòng hận sân,
Không đoạn diệt. Có tâm thù hận,
Lòng thù hận không được diệt đi.
              Có tâm giả dối mọi thì,
       Có tâm não hại ; hoặc vì ghét ganh,     
          Tâm gian manh ; hay tâm xan lẫn,
          Có tâm vẫn xảo trá, nói điêu,
              Ái dục, tà kiến mọi điều
       Đều không đoạn diệt và đều còn nguyên.
 
          Các Tỷ Kheo ! Hiện tiền Ta nói
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 40 :  XÓM  NGỰA  *  MLH  –   065
 
          Nếu vị ấy không khởi tinh cần
              Không thực hành thật chánh chân
       Các pháp môn xứng đáng phần Sa-Môn,
          Không thể có tâm hồn cương quyết
          Để đoạn diệt cấu uế trong tâm,
              Những tỳ vết, những lỗi lầm,
       Của ‘Sa-Môn’; khiến đọa trầm càng sâu
Vào đọa xứ, đọa vào ác thú.
 
          Các Tỷ Kheo ! Ví dụ tức thì :
              Một loại vũ khí hiểm nguy
       Tên Ma-Ta-Chá (1), lưỡi thì có hai
Rất sắc bén. Lưỡi này có thể
Được gói lại và để trong bao.
              Cũng vậy, như đề cập vào
       Sự xuất gia của vị nào Tỷ Kheo.
 
          Các Tỷ Kheo ! Ta không nói ý
          Sa-môn-hạnh là vị mặc y
              Tăng-Già-Lê – Săng-Ga-Ti (2)
       Chỉ tùy thuộc Săng-Ga-Ti bảo tồn.
 
          Ta không nói Sa-môn-hạnh thế
          Của một người lõa thể như vầy
              Tùy thuộc vào lõa thể này.
       Ta không nói hạnh đủ đầy Sa-Môn
     _________________________
(1) : Mataja .    
(2) : Đại  y hay thượng y Tăng-Già-Lê – Sanghàti .  Một vị Tỷ Kheo
    (Tỳ-Khưu -Bhikkhu ) đã thọ Cụ-Túc-Giới (Đại Giới ) luôn  mang
    theo mình Bình Bát và Tam Y : Y An-Đà-Hội  (Antarvàsa –Y mặc
    như quần ); Y Uất-Đà-La-Tăng  (Uttara sangha –Y vai trái ) ; Y
    Tăng-Già-Lê – Sanghàti  ( Y may từ 2 đến 7 lớp- có thể dùng để
    đắp .Y này chỉ hàng Tỷ Kheo mới có , khi hành Tăng Sự thì bắt
    buộc phải đắp lên vai trái, bên ngoài Y Uất-đà-la-tăng ).
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 40 :  XÓM  NGỰA  *  MLH  –   066
 
          Của các vị bảo tồn khổ hạnh  (3)
Chỉ tùy thuộc khổ hạnh họ làm.
              Các ông ! Nếu lòng dục tham
       Của người vốn có tâm tham dục nhiều
          Được đoạn diệt, do điều vị ấy
          Chỉ nhờ hạnh mặc lấy đại y
            ( Tăng-già-lê – Săng-ga-ti ).
 
       Hoặc nếu người có sân si đầy lòng,
          Tâm hiềm hận hay lòng phẫn nộ
          Tâm não hại, tật đố (ghét ganh)
              Bỏn xẻn, xảo trá, gian manh
       Tâm đầy ái dục, đua tranh, kiến tà.
          Những người có tối đa chướng mạn
Như kể trên, mà đoạn diệt đi
              Chỉ nhờ hạnh mặc đại y,
       Thì những quyến thuộc, thân tùy nói chung
          Hay bà con có cùng huyết thống
          Những thân hữu thường sống chung quanh
              Khi người đó vứa mới sanh
       Đại y khuyên hãy sẵn dành hài nhi.
          Nói rằng : ‘Này hiền nhi ! Hãy mặc
          Đại y này trong tất cả thời
              Thì lòng tham dục diệt thôi !
       Tâm sân, giả dối, nói lời gian ngoa
          Tâm não hại hoặc là xảo trá,
          Tâm tật đố… tất cả diệt đi !
              Chỉ nhờ mặc được đại y
     ( Tăng-già-lê – Săng-ga-ti ) mọi thì.    
__________________________
 
(1) : Xem các loại khổ hạnh của ngoại đạo ở Đại Kinh Saccaka
       trang  026 .
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 40 :  XÓM  NGỰA  *  MLH  –   067
 
          Các Tỷ Kheo ! Bởi vì Ta thấy
          Có người mặc y ấy sớm trưa
              Nhưng tâm tham dục chẳng chừa
       Sân hận, phẫn nộ, lọc lừa gian manh
          Tâm tật đố (ghét ganh), xảo trá,
          Tâm tà kiến, man trá mọi phần,
              Nên Ta không nói ra rằng :
      ‘Sa-môn-hạnh của người hằng dục cao
          Tùy thuộc vào đại y thường mặc’.
         (Không phải mặc y là Tỷ Kheo ).
 *   *   *
              Nếu lòng tham dục dính đeo
       Người tâm tham dục ấy đều diệt đi.
          Chỉ nhờ y thực hành khổ hạnh,
          Nếu khổ hạnh các pháp thực thi
              Như tắm rửa theo lễ nghi,
       Lõa thể , bụi đất mọi thì thoa vô,
          Dưới gốc cây sống cô-độc hạnh,
          Hay là hạnh vị sống ngoài trời,
              Ăn uống định kỳ tùy thời
       Sống theo chú thuật, dùng lời khoa trương,
          Hay hạnh của vị thường bện tóc …
          Thì quyến thuộc, gia tộc chung quanh
              Khi người đó vừa mới sanh
       Khổ hạnh các cách khuyên dành hài nhi.
          Nói rằng : ‘Này hiền nhi ! Khổ hạnh
          Các phương pháp, sẽ tránh cho ta
              Lòng tham dục người có ra
Sẽ dược đoạn diệt. Hoặc là trải đi
          Những tâm khác thuộc tùy phiền não
          Nhờ khổ hạnh, an hảo diệt phăng’.
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 40 :  XÓM  NGỰA  *  MLH  –   068
 
              Các Tỷ Kheo ! Ta thấy rằng
       Những người khổ hạnh hận, sân vẫn nhiều 
          Tâm tham dục, mạn kiêu, phẫn nộ,
          Tâm giả dối, tật đố ( ghét ganh )
              Tà kiến, xảo trá, gian manh,
       Nên Ta không nói thực hành trải qua
         ‘Sa-môn-hạnh của nhà khổ hạnh
          Tùy thuộc hạnh khổ hạnh tối đa’.
 
              Các Tỷ Kheo ! Thế nào là    
       Để cho xứng đáng bậc Sa-Môn lành ?
          Pháp môn nào thực hành đó vậy ?
      –  Tỷ Kheo ấy luôn có dục tham
Đoạn diệt được lòng dục tham.
       Có tâm sân hận, không tàm quý chi
          Hiềm hận thì cùng tâm phẩn nộ,
          Lòng giả dối, tà kiến, gian manh,
              Bỏn xẻn, xảo trá, ghét ganh,
       Tất cả đều đoạn diệt nhanh cả rồi.
 
          Các Tỷ Kheo ! Ta thời tuyên bố
          Vị Tỷ Kheo do cố thực hành
              Với các pháp môn tịnh thanh
       Xứng đáng với bậc thiện lành Sa-Môn,
          Thì có thể chánh chơn diệt kỹ
          Những cấu uế của vị Sa-môn,
              Những tỳ vết của Sa-môn,
Những lầm lỗi của Sa-môn vị này.
          Ngăn đọa sanh sâu dày đọa xứ
          Không sinh vào ác thú, đường tà,
              Vị ấy tự ngã thấy là
       Gột sạch những pháp ác tà bất lương,
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 40 :  XÓM  NGỰA  *  MLH  –   069
 
          Thấy tinh tường tự ngã giải thoát
          Do tự ngã giải thoát, sạch tinh
              Cho nên hân hoan liền sinh,
       Tâm hân hoan khiến hỷ sinh tới liền,
          Do hỷ, nên thân khinh an đó,
          Thân khinh an, lạc thọ khởi thầm,
              Do lạc thọ, định tĩnh tâm.
     ( Tu tập không thể sai lầm, dở dang ).
 
          Các Tỷ Kheo ! Hoàn toàn cảm thụ  
          Vị Tỷ Kheo an trú muôn phương
              Cùng khắp thế giới vô lường
Biến mãn, câu hữu thường thường Từ, Bi
Cũng như thế, đồng thì với Hỷ
          Rồi với Xả ; thì vị Tỷ Kheo
              An trú biến mãn duyên theo
       Với tâm câu hữu cũng đều Từ, Bi  (1)
          Trú biến mãn khắp vì  Hỷ, Xả  (2)
Không hận, sân, rộng cả, vô biên.
              Các Tỷ Kheo ! Ví dụ liền :
       Một hồ sen nọ chứa tuyền nước trong
          Nước ngọt, mát và trong sáng thật
Có bờ hồ sắp đặt tinh tươm.
              Nếu có người từ Đông phương
       Đi đến, bị nóng bức dường cháy da.
          Nóng áp đảo anh ta, hành hạ
          Khát nước quá, khô cổ, mệt nhoài
              Người ấy đến hồ sen đây
       Giải trừ nóng bức, khát này dứt ngay.
    ___________________________
 
(1) & (2) :  Tứ Vô Lượng Tâm :
Từ ( Mettà ) , Bi ( Karunà ) ,  Hỷ ( Mudità )  và  Xã ( Upekkhà ) . 
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 40 :  XÓM  NGỰA  *  MLH  –   070
 
          Nếu có người phương Tây đi đến,
          Hay người đến từ hướng Nam này
              Hoặc từ hướng Bắc đến đây,
       Hoặc bất cứ hướng đến ngay nơi này.
          Bị nóng bức gắt gay hành hạ
          Khát nước quá, đắng họng, mệt nhoài,
              Người ấy đến hồ sen đây 
       Hết cả nóng bức, khát này dứt ngay.
 
  *   *   *
          Các Tỷ Kheo ! Điều này cũng giống
          Như có người đang sống bất an
              Tại các gia đình thuộc hàng
Hoặc Sát-Đế-Lỵ (1); hoặc Bàn-môn (1) ra,
          Hoặc giai cấp Thủ-Đà, Phệ-Xá  (1)
          Từ bỏ cà quyến thuộc, gia đình
              Vị ấy quyết định tự mình
       Đi đến Pháp & Luật siêu minh, tịnh lành
          Do Như Lai thực hành, thuyết dạy.
          Khi vị ấy tu tập, hành trì
              Vô lượng Hỷ, Xả, Từ, Bi,
       Nội tâm định tĩnh tức thì xảy ra.
          Ta nói là nhờ tâm định tĩnh
          Vị ấy hành chân chính pháp môn 
    _____________________________
 
(1) : Ấn-Độ thời trước Phật Thích-Ca, đã có Kinh Vệ-Đà( Veda)   
  là Thánh điển căn bản của  Đạo Bà-la-môn,  gồm 4 quyển : Rig- 
 Veda (Lê-câu Vệ-Đà), Sama-Veda , Yajur-Veda (Dạ-Nhu Vệ-Đà) , Atharva-Veda (A-thát-bà Vệ-Đà).         Căn cứ kinh Vệ-Đà,  xã hội chia ra 4 giai cấp bất di bất dịch :Bà-la-môn (Brahmana -giai cấp đứng đầu giữ phần nghi lễ, tế tự),  Sát-Đế-Lỵ (Khattiyà - giai cấp Vua chúa, quan quyền), giai cấp Phệ-Xá (Vessa - Thương gia) . Giai cấp cuối cùng bị áp chế, khinh rẻ nhất  là Thủ-Đà-La (Suddà)  hay còn gọi là Chiên-Đà-La (Candala) .
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 40 :  XÓM  NGỰA  *  MLH  –   071
 
              Xứng đáng là bậc Sa-Môn
       Với Sa-môn-hạnh bảo tồn, kính tôn. 
 
          Nếu Sát-Lỵ, Bàn-môn, Phệ-Xá,
          Chiên-Đà-La… tất cả vị nào
Từ bỏ gia đình, mong cầu
       Đến Pháp và Luật thanh cao, tịnh lành,
          Do Như Lai thực hành, thuyết dạy,
          Cố hành mãi, lậu hoặc diệt ngay,
              Vị ấy trong hiện tại này
       Tự mình chứng ngộ, rõ bày chân tâm,
          Thành đạt vô lượng tâm giải thoát,
          Tuệ giải thoát thành tựu an lành.
              Danh xưng ‘Sa-Môn’ đạt thành
       Nhờ vào lậu-hoặc ngọn ngành diệt tan ”.
 
*   *   *
          Đức Thế Tôn nghiêm trang thuyết giảng
          Pháp cao quý viên mãn, minh quang
              Các Tỷ Kheo trong đạo tràng
       Hoan hỷ tín thọ lởi vàng Thế Tôn ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )
 
 
 
 
*
*    *
 
 
 
(  Chấm dứt  Kinh số 40  :  Tiểu Kinh XÓM NGỰA  –
CÙLA ASSAPURA   Sutta  )
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7753)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8799)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2832)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4352)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2631)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7884)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12494)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8546)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567