Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

67. Kinh Càtumà

19/05/202010:31(Xem: 6803)
67. Kinh Càtumà

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com



67. Kinh CÀTUMÀ
( Càtumà  sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, Đấng Thế Tôn du hóa,
          Địa phương Cha-Tu-Má (1) dừng chân
              Rừng cây Mi-Rô-Ba-Lăng  (2)
       Trú tại đó với Chúng Tăng tịnh, hòa.
 
          Ngài Sa-Ri-Pút-Ta (3) Tôn-giả
        ( Hay ngài Xá-Lợi-Phất cũng là )
              Cùng ngài Mốc-Gá-La-Na  (4)
     ( Mục-Kiền-Liên cũng chính là ngài đây )
Lúc bấy giờ, hai ngài Thượng thủ
          Dẫn năm trăm Phích-Khú, cùng qua
              Đến tịnh địa Cha-Tu-Ma
       Để được yết kiến Phật Đà tại đây.
 
          Các Tỷ Kheo nơi này chào đón 
Các vị đến. Rồi dọn sàng tòa,
Các y bát được cất qua,
       Nên tiếng náo động khởi ra ồn ào.
 
          Đức Thế Tôn hướng vào Tôn-giả      
A-Nan-Đa, hỏi đã xảy ra
              Chuyện gì náo động như là
       Tiếng phường đánh cá trải qua tranh dành
    ______________________________
 
  ( ) :  Địa phương tên  Càtumà .
  (2) :  Rừng cây Myrobalam  ( Kha-lưu-lạc ) .
  (3) :  Tôn giả Sariputta  ( Xá-Lợi-Phất ) được Phật tuyên bố là
         Đại-đệ-tử tay mặt của Ngài , vị Trí Tuệ đệ nhất .
  (4) :  Tôn giả Moggallana  ( Mục-Kiền-Liên ) là Đại-đệ-tử tay
        trái của Phật , vị Thần thông đệ nhất .
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  426
 
          Khi thuyền về, tranh dành chia cá ?
          A-Nan-Đa Tôn-giả thưa qua
Nguyên nhân sự việc xảy ra.
       Thế Tôn liền bảo ngài A-Nan-Đà :
 
    – “ Nhân danh Ta, hãy đi tìm họ   
          Bảo Đạo Sư gọi họ gặp Ngài ”. 
 
        – “ Bạch Thế Tôn ! Con đi ngay ”.
 
       Rồi Tôn-giả chuyển lời Ngài y theo.
          Tất cả vị Tỷ Kheo mới đến
          Cùng đi đến hương thất Thế Tôn,
              Chí thành đảnh lễ Thế Tôn
       Một bên ngồi xuống nhu ôn cạnh Ngài.
 
          Đấng Như Lai liền lên tiếng hỏi  
          Hướng về mọi Tỷ Kheo ngồi gần :
 
        – “ Các Tỷ Kheo ! Có nghĩ chăng
       Có tiếng náo động như hàng ngư dân
          Tranh dành cá vang rân náo động ? ”.
 
     – “ Bạch Thế Tôn ! Náo động do là
              Năm trăm Tỷ Kheo từ xa
       Vừa đến tại Cha-Tu-Ma nơi này
          Do hai ngài : Sa-Ri-Pút-Tá
          Và Mốc-Ga-La-Ná  dẫn đầu
              Chư Tăng tại đây đón chào
       Dọn sàng tọa, y bát mau cất vào,
          Nên có tiếng ồn ào như vậy ”.
 
    – “ Các Tỷ Kheo ! Mau hãy đi đi !
Ta đuổi các ông phải đi.
Chớ gần Ta. Hãy cấp kỳ đi ra ! ”.
    – “ Bạch Phật Đà ! Xin vâng lời dạy ”.
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  427
 
          Các Tỷ Kheo đứng dậy tức thì
              Đảnh lễ đấng Chánh Biến Tri
       Hữu nhiễu quanh Phật rồi thì đi ra.
          Dọn dẹp lại sàng tòa như cũ
Lấy y bát, ủ rủ đi ra.
              Lúc ấy, Thích-tử Thích Ca
       Các vị tạm trú tại Cha-Tu-Mà,
          Đang hội họp bàn qua công vụ
          Tại giảng đường đang trú nơi đây.
              Bỗng thấy các Tỷ Kheo này
Từ xa đi đến, mặt mày buồn hiu.
          Các Thích-tử thấy điều như vậy
          Hòi các Tỷ Kheo ấy như sau :
        – “ Nay chư Tôn-giả đi đâu ? ”.    
 – “ Chư Huynh ! Cả bọn phạm vào điều sai,
          Bị Như Lai đuổi đi như vậy ”.
 
    – “ Chư vị hãy ngồi lại nơi này 
              Chúng tôi sẽ xin với Ngài ”.
 – “ Thưa vâng, xin các Huynh đài giúp cho ”.
 
          Các Thích-tử này do sốt sắng
          Đến, đảnh lễ Chánh Đẳng Như Lai,
Rồi ngồi xuống một bên Ngài.
     ( Các vị Thích-tử ở đây chính là
          Sát-Đế-Lỵ Thích Ca tộc hệ  (1)
          Thuộc Ca-Tỳ-La-Vệ (1) nước này )
              Các Thích-tử bạch Phật ngay :  
     ____________________________
 
(1) : Bộ tộc Sakya  – Thích Ca thuộc giai cấp Khattiya (Sát-Đế-
      Lỵ ) thuộc Tiểu quốc Kapilavatthu  ( Ca-Tỳ-La-Vệ ) lúc ấy
    dưới sư trị vì của Vua Tịnh Phạn (Suddhodana – là cha của
    Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta , tức Đức Phật ) . 
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  428
 
– “ Bạch đấng Thiện Thệ ! Xin Ngài thứ tha,
          Xin Phật Đà từ bi hoan hỷ
Với các vị Tỷ Kheo lỗi lầm.      
              Trước kia, Ngài với từ tâm  
Tiếp độ, hướng dẫn họ tầm đường tu
          Nay xin giúp Phích-Khu (1) các vị 
          Trong số họ, có vị mới tu
              Thân tâm chưa được hòa nhu
       Xuất gia mới mẻ, công phu chưa nhiều,
Pháp và Luật họ đều sơ lược.
          Nếu không được yết kiến Phật Đà
              Có thể họ đổi khác ra,
Có thể biến chất hoặc là lầm đi.
          Bạch Thế Tôn ! Giống y hạt giống
          Không tưới nước, sức sống sẽ suy
              Có thể chúng biến dạng đi
       Hoặc chúng đổi khác, còn tùy xảy ra.
          Bạch Phật Đà ! Bê con được ví
          Với nó, chỉ có mẹ mà thôi,
              Nếu bò mẹ bị tách rời
       Có thể bê biến dạng rồi đổi thay.
          Cũng như vậy, xin Ngài hoan hỷ
Lượng thứ cho các vị Tỷ Kheo.
              Đây có những tân Tỷ Kheo
       Xuất gia mới mẻ, chưa theo Luật điều.
          Nếu Thế Tôn dùng nhiều cách phạt,
          Họ có thể đổi khác, càng sai,    
              Xin Phật tiếp đón Chúng này
       Xin hãy hoan hỷ, xin Ngài từ bi ”.
    _______________________________
 
 (1) : Bhikkhu – Tỳ-Khưu hay Tỷ-Kheo , có nghĩa là Khất-sĩ .
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  429
 
Vị Sa-Hăm-Pá-Ti (1), thường trú
Cõi Phạm Thiên. Là chủ Ta-Bà,
              Với tâm của mình, biết qua
       Tâm của Đại Giác Phật Đà trí minh.
          Như lực sĩ tạo hình, dễ dãi
          Duỗi cánh tay co lại của mình,
              Phạm Thiên biến mất thình lình
       Khỏi Phạm-Thiên-giới, an bình hiện ra
          Trước mặt đức Phật Đà tự tại
          Đắp thượng y vai trái nghiêm trang
              Chắp tay hướng Phật, bạch rằng :
 – “ Bạch đức Điều Ngự ! Ngài hằng từ bi.
          Hãy hoan hỷ với Tỳ-Khưu Chúng,
          Hãy tiếp đón, gặp Chúng Tăng này.
              Ví như Thế Tôn trước đây
Tiếp độ, giúp họ, tâm đầy thương yêu.    
          Trong số họ, có nhiều Phích-Khú
          Mới xuất gia, chưa đủ oai nghi,
              Vừa đến trong Pháp & Luật ni,
       Không được yết kiến Phật thì buồn thay !
          Có thể vì điều này thối thất,
Rồi đổi khác, biến chất, lầm đi.
              Kính bạch đấng Chánh Biến Tri !
       Hạt giống thiếu nước sẽ suy yếu liền,
Như bê con tách riêng bò mẹ…
          Các Tỷ Kheo này sẽ lạc đường                 
              Bạch đấng Thiện Thệ Pháp Vương !
       Xin Ngài hoan hỷ, hãy thương Chúng này ”.
          Do trình bày thiết tha, tuần tự  
    ________________________________
 
(1) : Đại Phạm Thiên Sahampati   tại Cõi Trời Phạm Thiên .
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  430
 
          Các Thích-tử và Đại Phạm Thiên
Sá-Hăm-Pá-Tí, là duyên
       Để đấng Đại Giác bỏ phiền làm vui,
          Với ví dụ để nuôi hạt giống
Hay sự sống mất mẹ của bê.
              Khi đã giải quyết vấn đề
       Sá-Hăm-Pá-Tí trở về Phạm Cung
Các Thích-tử cũng cùng từ giã.
          Ngài Mốc-Ga-La-Ná bấy giờ  
              Bảo các Tỷ Kheo ngồi chờ :
 
 – “ Chư Hiền ! Đứng dậy ! Nhân cơ hội này
          Đại Phạm Thiên, các ngài Thích-tử
          Đã xin đấng Điều Ngự thứ tha,
           Phật đã vui lòng bỏ qua .
       Lấy y bát, hướng Phật Đà đến ngay ! ”.
          Các vị này vâng theo Tôn-giả 
          Từ chỗ ngồi đứng cả lên ngay
              Đến gặp Phật, đảnh lễ Ngài,
       Một bên ngồi xuống, lòng đầy hân hoan.
          Phật nhìn sang Sa-Ri-Pút-Tá ,
          Hỏi : “ Này Xá-Lợi-Phất ! Nghĩ gì
              Khi Ta đuổi bọn họ đi ? ”.
 
 – “ Bạch Phật ! Các Tỷ Kheo ni lỗi lầm
          Bị Ngài đuổi, con thầm nghĩ ngợi :
 ‘Vậy thuận lợi, ít bận rộn Ngài,
Trú an hiện-tại-lạc này.
       Chúng con cũng vậy, từ rày được an ”.
 
    – “ Xá-Lợi-Phất ! Hãy khoan nói thế,
          Chớ có để tư tưởng như vầy
              Khởi lên từ nơi ông đây ”.
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  431
 
 
       Mục-Kiền-Liên lại được Ngài hỏi qua :
    – “ Này Mốc-Gá-La-Na ! Ông nghĩ
          Về các vị bị đuổi thế nào ? ”.
        – “ Bạch Thế Tôn ! Con nghĩ mau :
       Nay sự bận rộn, ồn ào mất đi,
          Hiện-tại-lạc Phật thì an trú,
          Từ nay tự con và Pháp-huynh
Sa-Ri-Pút-Tá, tận tình
       Lãnh đạo Tăng Chúng nghiêm minh, an lành ”.
    – “ Lành thay ! Này Mốc-Ga-La-Ná ! 
          Chỉ có Ta và cả hai là : 
              Tay mặt, Sa-Ri-Pút-Ta,
       Tay trái, Mốc-Gá-La-Na – tận tình
          Mới có thể nghiêm minh lãnh đạo
          Chúng Tỷ Kheo y giáo hành trì ”.
 
              Sau đó, đức Chánh Biến Tri
       Cho gọi Tăng Chúng tức thì vào ngay.
 
          Ngài thuyết giảng : “ Hỡi này Tăng Chúng !
          Bốn điều cũng đáng sợ như nhau
              Chờ đợi ai lội nước sâu.
       Thế nào là bốn ?  –  Sợ vào sóng to, 
–  Sợ và lo cá sấu làm hại,
      –  Sự sợ hãi nước xoáy giữa dòng,
–  Sợ hãi cá dữ tấn công.
       Bốn điều sợ hãi chẳng mong gặp này
Luôn chờ đợi những ai lội nước.
          Cũng vậy, bốn điều được nêu ra
              Chờ đợi những người xuất gia
       Luôn đáng sợ hãi, trải qua sớm chiều.
          Thế nào là bốn điều đáng sợ
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  432
 
          Cũng tương tợ : cá sấu, sóng to,
Nước xoáy, cá dữ đáng lo.
       Các ông ! Sợ hãi nguyên do thế nào ?
 
      *  Sự sợ hãi ra sao về sóng ?
          Các Tỷ Kheo ! Đang sống tại gia
              Một Thiện-nam-tử an hòa
       Vì lòng tin, đã xuất gia, lìa nhà,
Bỏ gia đình, tránh xa thế tục.
          Trong tỉnh thức, vị ấy nghĩ suy :
            “ Ta bị già, chết, sầu, bi,
Sanh, khổ, ưu, não… mọi thì chẳng buông,
Khổ áp bức, khổ luôn chi phối.
          Tuy vậy, ta mong đợi như vầy :        
              Dứt toàn bộ khổ uẩn này ”.
       Xuất gia, vị ấy đêm, ngày, ngoài, trong
          Được các vị là đồng-phạm-hạnh
          Giảng dạy điều chân chánh, khuyên bày :
 ‘Ông cần thực hiện hằng ngày :    
       Ngó tới như vậy, như vầy ngó quanh,
          Đi và về an lành như vậy,
          Co & duỗi tay cũng phải oai nghi.
              Phải mang Tăng-già-lê y,
       Mang bát như vậy, mọi thì hóa duyên’.
 
          Vị ấy liền nghĩ theo việc đó :
 ‘Trước kia, ta chưa có xuất gia,   
              Chính ta giảng dạy người ta,
       Khuyến giáo người khác thật là nhiều thay !
          Nay họ đây hãy còn ít tuổi
          Đáng vào tuổi con cháu của ta
              Lại muốn giảng dạy cho ta,
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  433
 
       Lên mặt khuyến giáo với ta đủ điều’.
 
          Do tâm tư có nhiều bất mãn
Vị ấy nản, hoàn tục, về nhà.
              Các Tỷ Kheo ! Như vậy là 
       Vị ấy từ bỏ, lánh xa tu hành.
          Gọi đích danh là người sợ hãi
Sự sợ hãi về sóng tấn công.
              Các Tỷ Kheo ! Phải hiểu thông :
       Sợ hãi sóng – phẫn não : đồng nghĩa nhau.
 
      *  Còn thế nào sợ hãi cá sấu ?
          Thấy phiền não đời sống tại gia,
              Một Thiện-nam-tử trải qua
       Lòng tin sâu nặng, xuất gia tu hành,
Tâm chí thành muốn trừ dứt khổ.
          Nhưng tại chỗ trú xứ, hằng ngày
              Được đồng-phạm-hạnh các ngài
       Giảng dạy, khuyến giáo vị đây ân cần :
 
       “ Ông không nên nhai, ăn cái đó !
          Không nên có cách nếm, uống này !
              Nên nhai, ăn, nếm như vầy !
       Nên uống như vậy ! Phải đầy oai nghi.
          Ông nên ăn những gì cho phép,
          Không cho phép thì chẳng nên ăn ! 
              Nhai, nếm hay uống cũng hằng
       Theo sự cho phép & cấm ngăn giới này.
          Phải đúng thời nếm, nhai, ăn, uống,
          Không nếm, nhai, ăn, uống phi thời ”.
 
             Vị ấy suy nghĩ tức thời :     
      ‘Trước kia khi sống cuộc đời tại gia
          Cái gì muốn thì ta thực hiện,
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  434
 
          Nếu không muốn, ta miễn làm ngay,
              Sự ăn, uống, nếm, nhai này
       Đúng thời, ta uống, ăn, nhai đã đành
Phi thời cũng thực hành điều đó.
 
          Như nay có gia-chủ tín thành
              Cúng dường món ăn ngon lành,
       Hình như bị chận tại vành miệng ta ! ”. 
          Bất mãn do chỉ là vật thực
     Y lập tức hoàn tục, về nhà.  
              Các Tỷ Kheo ! Như vậy là 
   Vị ấy từ bỏ, lánh xa tu hành.
          Gọi đích danh là người sợ hãi
      Sự sợ hãi cá sấu tấn công.
              Các Tỷ Kheo ! Phải hiểu thông :
       Tham ăn – sợ cá sấu : đồng nghĩa nhau.
 
      *  Còn thế nào sợ hãi nước xoáy ?
          Thiện nam ấy chán đời tại gia
              Từ bỏ gia đình, xuất gia
       Do nghĩ : ‘Khổ áp bức ta mọi thời,
          Khổ chi phối cuộc đời ta mãi,
          Ta mong phải dứt khổ uẩn này’.
              Sống đời xuất gia, hằng ngày
       Với đồng-phạm-hạnh các ngài tại đây.
          Khi vị này đắp y mang bát
          Vào thị trấn hoặc các thôn làng
              Khất thực ; nhưng y hoàn toàn
       Thân không phòng hộ, mọi đàng dễ duôi,
          Không phòng hộ, dễ duôi lời nói,
          Không có mọi niệm-an-trú cần,
      Lại không chế ngự các căn.
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  435
 
       Vị này thấy các chủ-nhân các nhà
          Đời sống họ thật là đầy đủ
          Được hưởng thụ năm dục tăng gia,
              Thấy hoan hỷ ; nên nghĩ là : 
      ‘Khi chưa nhập chúng thì ta cũng vầy
          Cũng hưởng thụ đủ đầy năm dục
Trong mọi lúc, hoan hỷ trải qua.
              Ta có tài sản trong nhà
       Có thể hưởng thụ với gia tài mình,
   Vừa có thể tự mình làm phước’.
 Rồi lui bước, hoàn tục, về nhà.
              Các Tỷ Kheo ! Như vậy là 
       Vị ấy từ bỏ, lánh xa tu hành.
          Gọi đích danh là người sợ hãi
  Sự sợ hãi nước xoáy mênh mông.
              Các Tỷ Kheo ! Phải hiểu thông :
       Năm dục tăng trưởng cũng đồng nghĩa đây
 Với nước xoáy người này sợ hãi.
      *  Còn sợ hãi cá dữ là sao ?
              Có một Thiện-nam-tử nào
       Vì lòng tin quá dồi dào, xuất gia
  Bỏ gia đình, tránh xa thế tục.
          Trong tỉnh thức, vị ấy nghĩ suy :
            “ Ta bị già, chết, sầu, bi,
       Sanh, khổ, ưu, não… mọi thì chẳng buông,
  Khổ áp bức, khổ luôn chi phối.
          Tuy vậy, ta mong đợi như vầy :        
              Dứt toàn bộ khổ uẩn này ”.
       Xuất gia nhập chúng, ngày ngày vui thay !
          Khi vị này đắp y mang bát
          Vào thị trấn hoặc các thôn làng
Trung Bộ  (Tập 2)    Kinh 67 :  CÀTUMÀ             *   MLH –  436
 
              Khất thực ; nhưng y hoàn toàn
       Thân không phòng hộ, mọi đàng dễ duôi,
          Không phòng hộ, dễ duôi lời nói,
          Không có mọi niệm-an-trú cần,
      Lại không chế ngự các căn.
 
       Vị này nhìn thấy nữ nhân các nàng
          Y phục họ hở hang phất phới
          Không đoan chánh, khiêu gợi dục tâm
              Khiến vị này khởi tà dâm
       Dục tình liền phá hoại tâm vị này.
          Do dục vọng xéo dày như vậy
     Nên vị ấy hoàn tục, về nhà.
              Các Tỷ Kheo ! Như vậy là 
   Vị ấy từ bỏ, lánh xa tu hành.
          Gọi đích danh là người sợ hãi
          Sự sợ hãi cá dữ tấn công.
              Các Tỷ Kheo ! Phải hiểu thông :
       Phụ nữ – sợ cá dữ : đồng nghĩa nhau.
 
          Bốn điều này trước sau Ta giảng 
          Cũng đều đáng sợ hãi, kinh hồn,
             Chờ người xuất gia, Sa-môn,
       Gia đình từ bỏ, bảo tồn đường tu
          Trong Pháp & Luật ; công phu chưa đạt  
        ( Luôn cảnh giác về bốn điều này ) ”.    
 
              Thế Tôn thuyết giảng như vầy,
       Chư Tăng tín thọ, lời Ngài khâm tuân ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
*   *   *
 
(  Chấm dứt  Kinh số 67 :  CÀTUMÀ  –  CÀTUMÀ  Sutta  ) 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7761)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8804)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2834)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4356)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2633)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7888)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2874)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12498)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2762)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8551)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567