Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

80. Kinh Vekhanassa

19/05/202010:51(Xem: 7011)
80. Kinh Vekhanassa

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập III
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


80. Kinh VEKHANASSA

( Vekhanassa sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ  (1)

          Sa-Vát-Thí – Xá Vệ – trú qua

              Tinh Xá Chê-Tá-Va-Na  (2)

     ( Kỳ Viên ) cùng với Săng-Ga (3) tịnh, hòa

          Do A-Na-Thá-Pin-Đi-Ká  (2)

          Vị Trưởng-giả này đã cúng dường.

 

              Một vị đạo-sĩ du phương

       Vê-Kha-Nát-Sá, trên đường đến đây.

          Gặp Thế Tôn, ông này chào hỏi

          Những lời nói chúc tụng, xã giao,

              Sau đó, một bên đứng vào

       Những lời cảm hứng dạt dào thốt ra :

        “ Sắc này là tối thượng ! Tối thượng ! ”.

 

          Đấng Trí Bi Vô Lượng hỏi qua :

        – “ Nhưng này Vê-Khá-Nát-Sa !

       Sao ông nói : ‘Sắc này là tối cao’?

          Sắc này sao tối thượng, tối thượng ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn Giả ! Tối thượng tối cao

    _____________________________

 

( ) : Thế Tôn – Bhagava ; Thiện Thệ - Sugato : 2 trong Thập Hiệu

       của Đức Phật .

(2) : Kỳ Viên Tinh Xá – Jetavanavihàra tại Thành Xá Vệ (Savatthi )

      do Trưởng-giả Cấp-Cô-Độc – Anathapindika ( tên thật là

      Sudatta – Tu-Đạt ) dâng cúng . 

(3) : Sangha – Tăng-Già là đoàn thể các vị xuất gia đã thọ Cụ-Túc-

       Giới, trở thành vị Tỷ Kheo . Bản chất của Tăng-Già là thanh

       tịnh và hòa hợp .

Trung Bộ (Tập 3)   Kinh 80 :  VEKHANASSA        *  MLH –  076

 

              Vì không có sắc khác nào

       Cao thượng, thù thắng, thâm sâu hơn vầy ”.

 

    – “ Nhưng hỡi này Vê-Kha-Nát-Sá !

          Sắc nào không có sắc khác, mà

              Cao thượng, thù thắng hơn xa ? ”.

 

 – “ Thưa Tôn Giả Gô-Ta-Ma ! Sắc gì  

          Không có các sắc chi thượng đẳng

          Cao thượng hơn, thù thắng hơn xa

              Sắc ấy tối thượng chính là ! ”. 

 

 – “ Này ông Ve-Khá-Nát-Sa ! Lòng vòng

          Lời giải thích của ông dai dẳng

          Nói dài dòng mà chẳng thông ra !

              Ông phải giải thích rộng ra

       Phải chỉ rõ sắc nào là tối cao ?

          Kách-Cha-Ná ! Như vào ví dụ  

          Có một người thường cứ nói là :

             ‘Tôi yêu, ái luyến thiết tha

       Một cô gái đẹp, nết na vùng này’.

 

          Có người hỏi : ‘Hỡi này ông bạn !

          Ông có biết tường tận người yêu ?

              Thuộc giai cấp nào ? Giàu nghèo ?

       Quê quán, tên tuổi, mỹ miều ra sao ?

          Người bậc trung hay cao hoặc thấp ?

          Thân ốm mập, da dẻ thế nào ?

              Đen sẫm hay là hồng hào ?

       Ở thành hay ở làng nào, gần xa ?’

 

          Nghe hỏi vậy , anh ta ngơ ngẩn

          Trả lời rằng : ‘Tôi chẳng biết chi !’

              Có người hỏi lại tức thì :

Trung Bộ (Tập 3)   Kinh 80 :  VEKHANASSA       *  MLH –  077

 

      ‘Có phải anh đã yêu vì thiết tha

          Thật ái luyến người mà chưa biết

          Chưa từng gặp, cũng tuyệt thấy đâu ? ’

              Nghe hỏi, anh ta gật đầu.

 

   –  Vê-Kha-Nát-Sá ! Nghĩ sao việc này ?

           Sự kiện đây, phải chăng người ấy

          Nói vô lý, trật bậy phải không ?

       

          –  “ Vâng phải, bạch đức Thế Tôn !

       Sự kiện như vậy thật không đúng rồi !

          Không hiệu năng, đồng thời vô lý ”.

       

      –“ Cũng vậy, thật vô lý khi ông

              Phát biểu ý tưởng vừa xong :

      ‘Một sắc nào đó, mà không sắc nào

          Thù thắng hơn hay cao thượng hẳn

          Thời chắc chắn là sắc tối cao’

              Nhưng không chỉ rõ sắc nào ”.

 

     ( Sau đó du sĩ ví vào bảo châu

          Về ánh sáng bảo châu chói lọi.

          Đức Thế Tôn liền hỏi ông ta

              So sánh quang sắc trải qua

       Với nhiều ví dụ, như là trong Kinh

          U-Đa-Dí Tiểu Kinh tóm gọn :

          Sáng đom đóm hay ngọn đèn dầu,

              Đống lứa đêm tối cháy cao,

       Sao mai sáng tỏ hay vào sáng trăng,

          Mặt trời hằng chói lòa tỏa chiếu …

          Nhưng quang sắc chiếu diệu Chư Thiên      

              Ánh sáng rực rỡ vô biên ).

       Ngài nói : “ Quang sắc  Chư Thiên sáng ngời

          Mà mặt trăng, mặt trời thua cả .

Trung Bộ (Tập 3)   Kinh 80 :  VEKHANASSA       *  MLH –  078

 

          Biết Chư Thiên ấy đã từ lâu                   

              Nhưng Ta không nói như sau :

      ‘Không có một quang sắc nào thắng hơn,

          Vi diệu hơn quang sắc ấy cả !’.

          Này Vê-Kha-Nát-Sá ! Còn đây

              Ông nói : ‘Chính quang sắc này

       Cao thượng, thù thắng hơn bầy đóm sâu

          Quang sắc ấy thuộc vào tối thắng’,

          Không chỉ rõ quang sắc ấy ra.

 

              Hãy nghe, Vê-Kha-Nát-Sa !    

       Năm dục tăng trưởng trải qua thế nào ?

 

          Mắt nhận thức biết bao sắc khác     

          Là khả lạc, khả hỷ, đáng yêu

              Hấp dẫn, liên hệ dục nhiều. 

       Tiếng được nhận thức đủ điều do tai,

          Các hương này do mũi nhận thức,

          Lưỡi nhận thức các vị bao lần,

              Các xúc nhận thức do thân

       Khả lạc, khà hỷ, muôn phần đáng yêu,

          Hấp dẫn, liên hệ nhiều đến dục

 

          Là năm dục trưởng dưỡng trải qua.

              Này ông Vê-Khá-Nát-Sa !

       Khi lạc và hỷ nào mà khởi lên

          Mà chúng duyên năm dục trưởng dưỡng

          Gọi hiện tượng này ‘dục lạc’ ngay.

              Vì bởi có dục như vầy

       Nên có dục lạc, từ đây rõ là

         ‘Dục tối thượng lạc’ mà được gọi

          Là tối thượng. Ta nói rõ ra ”.

 

              Được nghe vậy từ Phật Đà    

Trung Bộ (Tập 3)   Kinh 80 :  VEKHANASSA       *  MLH –  079

 

       Du-sĩ Vê-Khá-Nát-Sa thưa ngay :

 

     – “ Vi diệu thay, bạch ngài Thiện Thệ !

          Hy hữu thay ! Thiện Thệ Phật Đà !  

              Chính Tôn-giả Gô-Ta-Ma

       Đã khéo tuyên bố, nói ra như vầy :

        ‘Do có dục, có ngay dục lạc,

          Từ dục lạc lại dẫn tới ngay

             Dục-tối-thượng-lạc điều này

       Được gọi là ‘tối thượng’, đây rõ bày ”.

 

    – “ Kách-Cha-Ná ! Cái này thật khó   

          Để cho ông hiểu rõ không sai

              Về ‘dục’ hay ‘dục lạc’ này

       Hay ‘dục tối thượng lạc’ đây tức thời.

          Ông là người thuộc chấp kiến khác,

          Kham nhẫn khác, mục đích khác xa,

              Tu tập, Đạo Sư khác Ta.

       Nhưng này Vê-Khá-Nát-Sà ! Hiểu chăng ?

          Đối với Tỷ Kheo Tăng viên mãn

          Là bậc A-La-Hán trên đời,

              Các lậu-hoặc đã tận rồi,

       Tu hành thành mãn, đồng thời làm xong

          Những việc cần làm trong tu tập,

          Họ đã đặt gánh nặng xuống ngay,

              Đã đạt mục đích, lành thay !

       Hữu-kiết-sử đoạn trừ ngay tức thời,

          Đã giải thoát nhờ nơi chánh trí,        

          Là những vị mới biết rõ là

              Dục, dục lạc hay là

       Dục tối thượng lạc, do qua hành trì ”.

 

          Nghe như vậy, tức thì Du-sĩ

Trung Bộ (Tập 3)   Kinh 80 :  VEKHANASSA       *  MLH –  080

 

          Vê-Kha-Nát-Sá ấy nổi sân                      

              Bất mãn, phẫn nộ vô ngần

       Mắng nhiếc cả Phật rần rần, thốt ra :

       “ Sa-môn Gô-Ta-Ma rồi sẽ

          Bị đọa lạc, là kẻ tiện nhân ”.   

 

              Sau khi bình tỉnh, nói rằng : 

 

 – “ Nhưng nếu như có thành phần Sa-môn,

          Bà-la-môn chưa hề chứng dự,

          Không biết về quá khứ, tương lai,

              Nhưng họ tự cho như vầy :

      ‘Sự sanh đã diệt, hạnh ngay đã thành,

          Việc cần làm, thực hành vô ngại,

          Không trở lại đời sống thế nhân’.

              Lời nói như vậy dối gian,

       Tự chứng tỏ là nói nhăng đáng cười,

          Chứng tỏ lời họ là hư vọng,

          Tự chứng tỏ nói trống không thôi ! ”.

 

        – “ Này Kách-Cha-Ná ! Những lời 

       Ông nói như vậy hợp thời, đúng thôi !

          Những Sa-môn, các người Phạm-chí

          Không chứng đạt, tự thị cho là

              Thánh quả mình đã chứng qua,

       Lời nói như vậy thật là dối thay !

 

          Nhưng hãy bỏ tương lai, quá khứ,

          Người trí, bậc quân tử chánh chân         

              Không xảo quyệt, không gian manh,

       Hãy đến và nói : ‘Pháp lành diệu vi

          Ta thuyết pháp, ta thì giảng dạy,

          Nếu thực hành điều ấy tận tình

              Không bao lâu tự biết mình

Trung Bộ (Tập 3)   Kinh 80 :  VEKHANASSA       *  MLH –  081

 

       Tự thấy : ‘Như vậy là mình trải qua

          Thật sự là đã được giải thoát,

          Thoát khỏi sự ràng buộc hãi kinh

              Là ràng buộc của vô minh’.

       Vê-Kha-Nát-Sá ! Như hình hài-nhi

          Bé, yếu ớt, tứ chi và cổ

          Bị trói buộc năm chỗ như vầy

              Với năm trói buộc bằng dây.

       Đến khi nó lớn, căn đây năm phần

          Đã thuần thục, tự thân thoát khỏi

          Các buộc trói chặt chẽ xưa nay.

              Lập tức nó biết như vầy :

      ‘Ta được giải thoát !’, tâm nay an tường.

 

          Kách-Cha-Ná ! Cũng dường như thế

          Người trí tuệ, chân trực thẳng ngay

              Tuyên bố : ‘Ta giảng dạy đây !

       Ta nay thuyết pháp, chỉ ngay con đường’.

          Nếu kiên cường thực hành điều dạy

          Không bao lâu, người ấy thật tình

              Tự biết mình, tự thấy mình.

       Như vậy, thật sự tuệ minh hiểu là

          Đã giải thoát, vượt qua ràng buộc

          Sự ràng buộc chính của vô minh ”.

 

              Khi nghe được pháp cao minh    

       Vê-Kha-Nát-Sá thật tình hân hoan.

          Vị du sĩ hướng sang Thiện Thệ

          Tâm hoan hỷ vô kể, nói ngay :

 

        – “ Thưa Tôn Giả ! Vi diệu thay !

       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm

          Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối

Trung Bộ (Tập 3)   Kinh 80 :  VEKHANASSA       *  MLH –  082

 

          Đem đèn sáng vào tối như bưng

              Để ai có mắt mở bừng

       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu.

          Cũng như thế, nhiệm mầu Chánh Pháp

          Được Thế Tôn giải đáp, trình bày

       

              Con xin quy ngưỡng từ nay

       Quy y Đại Giác, nương ngay Pháp mầu,

          Quy y Tăng thanh cao đức cả

          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn

              Mong Thế Tôn nhận cho con

       Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên

          Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục

          Kể từ nay đến lúc mạng chung

              Nguyện theo lời đấng Đại Hùng

       Thực hành Giáo Pháp vô cùng cao thâm ” ./-

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

 

* * *

 

(  Chấm dứt  Kinh số 80  :   VEKHANASSA  –

VEKHANASSA  Sutta )




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7759)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8804)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2834)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4356)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2632)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7887)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2874)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12498)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2762)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8551)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567