Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Kinh Khu Rừng

18/05/202019:54(Xem: 7141)
17. Kinh Khu Rừng

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com



17. Kinh KHU RỪNG

( Vanapattha sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn an trụ

          Kỳ Viên Tự  – Chê-Tá-Va-Na

              Do Cấp-Cô-Độc tín-gia

A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka – cúng dường 

          Tại đây, Đấng Pháp Vương liền gọi :

    – “ Chư Tỷ Kheo ! Ta nói pháp này

              Hãy nghe, suy nghiệm kỹ rày

       Về ‘Khu Rừng’, pháp Ta nay trình bày ”.

          Các Tỷ Kheo nơi đây vâng đáp

          Rồi lắng nghe thời pháp của Ngài.

 

        – “ Này chư Tỷ Kheo ! Ởđây      

       Tỷ Kheo nào sống ở ngay khu rừng

          Các niệm nào chưa từng an trú

Đã không được an trú tức thì

              Tâm tư chưa định tĩnh gì

       Không được định tĩnh mọi thì bình an

          Các lậu hoặc chưa hoàn toàn dứt

          Không hoàn toàn được dứt trừ nhanh

              Vô thượng an ổn tịnh thanh

       Khỏi các ác phược chẳng lành đáng chê

          Chưa chứng đạt, không hề chứng đạt

          Những vật dụng này, khác rất cần

              Cho người xuất gia, độc thân

       Phải sắm đầy đủ tự thân bốn phần :

          Thuốc trị bệnh, thức ăn khất thực,

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 17 :  KHU RỪNG          *  MLH  – 250

 

          Cùng sàng tọa, y phục của Tăng

              Các vật dụng kiếm khó khăn

       Vị Tỷ Kheo ấy phải cần nghĩ suy :

         ‘Khu rừng này mọi thì khó sống

          Khi ta sống đây chẳng dễ dàng

              Các niệm chưa được trú an

       Không được an trú hoàn toàn trong ta

          Tâm tư ta vốn chưa định tĩnh     

          Vẫn không được định tĩnh an hòa

              Rồi các lậu-hoặc của ta

       Chưa hoàn toàn diệt, vẫn là còn nguyên

          Chưa chứng đạt hiện tiền vô thượng

          Khỏi ác phược các chướng chưa thành

              Không được chứng đạt, hoàn thành

       Về tứ-vật-dụng rất cần cho ta

          Khó kiếm được nếu ta vẫn sống

          Tại khu rừng sâu rộng như vầy’.

              Này Tăng Chúng ! Tỷ Kheo này

       Phải từ bỏ khu rừng ngay tức thì

          Không ở lại làm gì rừng đó

          Dù ban đêm hay ở ban ngày.

 

          *  Mặt khác, vị Tỷ Kheo này

       Sống ở một khu rừng dày vắng teo

          Vị Tỷ Kheo sống nơi rừng ấy

          Tự cảm thấy niệm chưa trú an

              Thì niệm không được trú an

       Tâm chưa định tĩnh, không màng tĩnh an

          Các lậu hoặc chưa hoàn toàn dứt

          Không hoàn toàn được dứt trừ nhanh

              Vô thượng an ổn tịnh thanh

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 17 :  KHU RỪNG          *  MLH  – 251

 

       Khỏi các ác phược chẳng lành đáng chê

          Chưa chứng đạt, không hề chứng đạt

          Những vật dụng này, khác rất cần

              Cho người xuất gia, độc thân

       Phải sắm đầy đủ tự thân bốn phần :

          Thuốc trị bệnh, thức ăn khất thực

          Cùng sàng tọa, y phục của Tăng

              Vật dụng kiếm không khó khăn

      (Vì có làng xóm khá gần rừng đây)

          Tỷ Kheo này phải cần suy nghĩ :

 ‘Ta sở dĩ sống ở rừng này

              Không vì vật-dụng hằng ngày

       Y phục, vật thực nơi đây dư dùng

          Thuốc trị bệnh tốt, cùng sàng tọa,

          Ta là một hành-giả tu thiền 

              Các niệm không được trú yên

       Không được định tĩnh, chướng duyên vẫn còn

          Các lậu-hoặc không hoàn toàn dứt

          An ổn, khỏi ách phược không thành

              Thì sự lợi dưỡng phát sanh

Ích gì cho sự tu hành của ta !’.

          Tỷ Kheo sau khi qua suy nghĩ

          Rốt cuộc chỉ chọn một con đường :

              Từ bỏ, không ở lại rừng.

 

   *  Này Tỷ Kheo Chúng ! Đã từng trải qua

          Vị Tỷ Kheo nào mà sống tại

          Một khu rừng nào đấy cưu mang

              Các niệm chưa được trú an

       Thì được an trú dễ dàng tại đây

          Tâm chưa định thì nay định tĩnh

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 17 :  KHU RỪNG          *  MLH  – 252

 

          Các lậu-hoặc mắc dính đoạn trừ

              Vô thượng an ổn như như

       Khỏi các ác phược, an từ chứng ngay

          Nhưng tại đây khó khăn vật thực,

          Thuốc trị bệnh, y phục khó khăn

              Sàng tọa ngủ nghỉ … các phần

       Nói chung tứ sự khó khăn, thiếu nhiều.

          Nhưng Tỷ Kheo đăm chiêu suy nghĩ :

         ‘Ta sống đây để chỉ tu hành

              Tuy tứ-vật-dụng phát sanh

       Thảy đều thiếu thốn sẵn dành cho ta

          Nhưng đường tu của ta chứng đạt

          Còn việc khác, lợi dưỡng không cần’,

              Tỷ Kheo suy tính, quyết rằng

       Phải nên ở lại tinh cần tịnh tu.  

 

      *  Còn Phích-Khu đã từng an trú

          Tại một nơi rừng rú, tu thiền

              Các niệm đã được trú yên

       Tâm tưđịnh tĩnh, an nhiên vô vàn

          Các lậu-hoặc hoàn toàn diệt được

          Khỏi ách phược, an ổn chứng rồi.

              Thuốc trị bệnh dễ kiếm thôi

       Thức ăn khất thực cũng dồi dào ra

          Y phục và sàng tòa đầy đủ

          Nói chung tứ-vật-dụng dễ dàng.

              Tỷ Kheo ấy cần nghĩ rằng :

      ‘Nơi đây đáp ứng điều hằng ước mong

          Bề tứ-sự thì không trở ngại

          Đường tu hành cũng lại hanh thông

              Chứng đạt được phần đợi trông’,

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 17 :  KHU RỪNG          *  MLH  – 253

 

       Vịấy cần phải sống trong khu rừng

          Đến trọn đời nếu từng phát nguyện

          Không thối chuyển rời bỏ rừng đây.

 

          *  Mặt khác, vị Tỷ Kheo này

       Sống tại làng mạc, sống ngay đô thành

          Tinh Xá nào hay quanh thị trấn

          Trong địa phận một quốc gia nào

              Sống gần vị thiện hữu nào

      (Một vị Sư trưởng hay vào bạn tu)       

      *  Trường hợp một, cho dù chuyên chú

          Các niệm không an trú, vọng tâm

              Tâm không định tĩnh, sóng ngầm

       Các lậu-hoặc không được thầm diệt đi

          Chưa chứng đạt những gì mong mỏi

          Về tứ sự các loại cần dùng :

              Vật thực, y phục, phụ tùng

       Thuốc men, sàng tọa – nói chung thiếu nhiều.

          Vị Tỷ Kheo trọng điều chứng đắc

          Suy tính thật chu đáo ngọn ngành

              Cần phải bỏ chốn này nhanh

       Không cần xin phép vị hành giả kia.

 

      *  Trường hợp hai, cùng chia gian khổ

          Sống cùng chỗ phạm hạnh đồng tu

              Tỷ Kheo dù cố công phu

       Nhưng các niệm vẫn mịt mù không an

          Tâm chưa định,hoàn toàn không định 

          Các lậu-hoặc mắc dính không trừ

              Không chứng đạt để an như

       Dù tứ-vật-dụng thường dư dả nhiều.

          Vị Tỷ Kheo trọng điều chứng đắc

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 17 :  KHU RỪNG          *  MLH  – 254

 

          Suy tính thật chu đáo ngọn ngành

              Cần phải bỏ chốn này nhanh

       Không cần xin phép vị hành giả kia.

 

      *  Trường hợp ba, không lìa phạm hạnh

          Cùng chung sống trong cảnh đạo tràng

              Tỷ Kheo các niệm trú an

       Tâm được định tĩnh hoàn toàn nghiêm trang

          Các lậu-hoặc hoàn toàn diệt được

          Khỏi ác phược chứng đạt chánh chân,

              Tứ-sự thì kiếm khó khăn

       Y phục, thuốc bệnh, thức ăn, sàng tòa.

          Nhưng Tỷ Kheo trải qua suy tính :

 ‘Vì mục đích giải thoát khổ này

              Dù tứ-vật-dụng nơi đây

       Khó kiếm, thiếu thốn hằng ngày cho ta,

          Nhưng phải ở lại mà hành đạo

          Phải theo sát vị giáo-thọ này’.

 

          *  Trường hợp thứ tưởđây

       Vị Tỷ Kheo ấy hằng ngày cùng tu

          Với vị thầy ôn nhu phạm hạnh

          Được thuận lợi trong cảnh đạo tràng

              Các niệm chưa được trú an

       Thì được an trú, tâm càng thảnh thơi

          Tâm chưa định nay thời định tĩnh

          Các lậu-hoặc mắc dính, đoạn trừ

              Khỏi các ác phược, an như

       Chứng đạt vô thượng do từđiều đây.

          Tứ-vật-dụng nơi này đầy đủ

          Do khất thực, thí chủ cúng dường,

              Tỷ Kheo ấy cần am tường

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh 17 :  KHU RỪNG          *  MLH  – 255

 

       Những gì mình được, phải thường suy tư :

  ‘Vị giáo-thọ hiền từ bên cạnh

          Đồng phạm hạnh sách tấn cùng nhau

              Kết quả tu tập tiến mau

       Chứng đạt những pháp cao sâu mình cần

          Tứ-vật-dụng các phần đầy đủ

Đây là nơi an trú tốt thay !’,

              Này Tăng Chúng ! Tỷ Kheo này

       Cần phải theo sát vị thầy ởđây

          Suốt trọn đời, không thay đổi ý

          Không lìa bỏ, dù bị đuổi đi ”.       

 

              Nghe Phật thuyết giảng uy nghi

       Chư Tăng tín thọ, hành trì pháp siêu ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*    *

 

(  Chấm dứt  Kinh số 17 :  KHU RỪNG – 

VANAPATTHA Sutta  )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7753)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8799)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2832)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4352)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2631)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7884)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12495)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8546)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567