Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

108. Kinh Gopaka Moggallàna

19/05/202011:27(Xem: 6646)
108. Kinh Gopaka Moggallàna

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


108. Kinh  GOPAKA MOGGALLÀNA

( Gopakamoggallàna sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, A-Nan-Đa Tôn-giả  (1)

          Trú Vương Xá – Rá-Chá-Ga-Ha  (2)

              Ở tại Vê-Lú-Va-Na (2)

       Trúc Lâm Tinh Xá cũng là nơi đây

          Chỗ hằng ngày nuôi dưỡng loài sóc

          Khi Phật đã nhập diệt không xa.

 

              Bấy giờ vua Ma-Kiệt-Đà  (3)

       A-Chá-Sát-Tú (3) nghi Pa-Chô-Tà  (4)

        (Đăng Quang Vương) tràn qua quốc độ

          Nên cho xây kiên cố thành trì

              Ra-Cha-Ga-Ha tức thì.

 

       Buổi sáng, Tôn-giả đắp y chỉnh tề

     __________________________

 

(1) : ANANDA  hay A-Nan  là con Hộc-Phạn Vương ( Sukodana – 

em Vua Tịnh Phạn - Suddhodana ), tức là em chú bác với ĐứcPhật 

  Xuất gia cùng với 6 vị vương-tử giòng Thích Ca khi đức Phật về 

  thăm lại Ca-Tỳ-La-Vệ (Kapilavatthu ) lần đầu tiên sau khi thành

  đạo . Tôn-giả là vị Thị giả hầu cận trung tín của ĐứcPhật suốt 30

  năm trung-giác-thời và hậu-giác-thời của Phật .    ( 15 năm tiền-

  giác-thời, đức Phật chưa có vị  thị giả nào nhất  định và chính

  thức ) .

 

(2) : Trúc Lâm Tinh Xá ( Veluvanavihàra ) tại Thành Vương Xá

  ( Rajagaha ) của vương quốc Magadha ( Ma-Kiệt-Đà ).

 

(3) : Vua nước Ma-Kiệt-Đà lúc này là Ajatasattu ( A-Xà-Thế ).

 

(4) : Vua láng giềng Magadha là  Pajjota  (Đăng Quang Vương).

 

          Mang bát, đi hướng về Vương Xá

          Để khất thực. Tôn-giả bỗng nhiên

              Suy nghĩ trong sự tương liên :

    “ Còn quá sớm để hóa duyên như vầy

          Tại Vương Xá. Ta nay trực chỉ

          Đến Phạm-Chí tên Gô-Pá-Ka

              Thuộc họ Mốc-Gá-La-Na

       Thăm chỗ làm việc ông ta gần nhà ”.

 

          Rồi ngài A-Nan-Đa đến chỗ

          Phạm-chí Gố-Pa-Ká không xa.

              Bà-la-môn Gô-Pá-Ka

       Thấy Tôn-giả A-Nan-Đà từ xa

          Đang đến nhà mình, liền hoan hỷ

          Nói với vị Tôn-giả Đa Văn : 

 

        – “ Hãy đến, Tôn-giả A-Nan !

       Thiện lai. Tôn-giả A-Nan ! Lâu rồi

          Ngài mới đến tại nơi này đó !

          Một cơ hội hiếm có như vầy.

              Tôn-giả xin hãy ngồi đây

       Chỗ đã soạn sẵn để ngài ngồi an ”.

 

          Vị Tôn-giả A-Nan đi thẳng 

          Ngồi xuống chỗ đã sẵn soạn ra,

              Còn Bàn-môn Gô-Pa-Ka

       Lấy một ghế thấp ngồi qua gần ngài.

          Bàn-môn liền thưa ngay tự sự :

 

    – “ Có thể chăng, Phích-Khú thực hành 

              Một cách trọn vẹn tựu thành

       Một cách đầy đủ pháp lành sâu xa

          Mà Ngài Gô-Ta-Ma thuở trước

          Đã đạt được, thành bậc Thế Tôn ?

        – “ Không như thế, này Bàn-môn !

       Không thể có một Sa-môn nào mà

          Thành tựu qua một cách hoàn hảo,

          Đầy đủ, thấu tất cả pháp môn

              Mà bậc La-Hán, Thế Tôn,

       Chánh Đẳng Chánh Giác viên thông tựu thành.

          Thế Tôn, bậc tịnh thanh từ ái,

          Làm khởi dậy con đường trước đây

              Chưa hề được hiện khởi, hay

       Làm cho biết con đường này, từ xưa

          Vốn dĩ chưa ai từng được biết.

          Nói chi tiết về con đường này,

              Là bậc hiểu đạo, biết ngay,

       Thiện xảo về đạo, đức tài lành thay !

          Các đệ tử do Ngài dạy bảo

          Những vị sống hành đạo, tùy hành

              Các pháp ấy sẽ tựu thành ”.

 

       Nhưng cuộc nói chuyện thình lình cắt ngang 

          Giữa Tôn-giả A-Nan với gã

          Gô-Pa-Ká Mốc-Gá-La-Na.

              Bởi vì Vát-Sá-Ka-Ra

       Đại thần của Ma-Ga-Tha nước này

          Đi thị sát nơi đây tuần tự

          Các công sự Ra-Chá-Ga-Ha,

              Ghé công trường Gô-Pa-Ka

       Gặp Tôn-giả A-Nan-Đa nơi này.

 

          Nói với ngài những lời chào hỏi

          Sau khi nói lời xã giao trên,

              Ông liền ngồi xuống một bên  

       Hướng đến Tôn-giả, thưa lên rõ ràng :

    – “ Thưa Tôn-giả A-Nan ! Câu chuyện

          Tôn-giả hiện đàm luận là gì ?

              Bị gián đoạn câu chuyện chi ? ”.

 

 – “ Này ông Phạm-Chí ! Hiện thì xảy ra

          Do ông Gô-Pa-Ka Phạm-chí

          Tức là vị Mốc-Gá-La-Na

              Đã hỏi tôi về chuyện là :

       Một Tỷ Kheo có trải qua tựu thành

          Thật trọn vẹn, tựu thành đầy đủ

          Các pháp tự Tôn Giả Kiều Đàm

              Bậc Chánh Đẳng Giác hoàn toàn

       Đã được thành tựu nghiêm trang sâu dày ”.

          Rồi Tôn-giả trình bày căn bản

          Những điều mình đã giảng giải ra.

 

              Đại thần Vát-Sá-Ka-Ra

       Hỏi Tôn-giả A-Nan-Đa như vầy :

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Khi ngài Thiện Thệ  

          Gô-Ta-Ma tại thế, có chăng

              Một vị trong Tỷ Kheo Tăng

       Được Ngài sắp đặt truyền đăng như vầy :

         ‘Chính vị này, khi Ta diệt độ

          Sẽ là chỗ nương tựa của Tăng,

              Cho nên các ông phải hằng

       Y chỉ nơi vị này bằng lòng tin ? ”.

 

    – “ Này Bàn-môn ! Sự tình như vậy

          Đã không xảy ra với Tăng-Già

              Không một Tỷ Kheo nào, mà

       Được đức Chánh Giác, Phật Đà, Thế Tôn,

          Bậc Tri-giả, viên thông Kiến-giả

          A-La-Hán đạo quả sâu xa

              Chỉ định thay đấng Phật Đà

       Khi Ngài tịch diệt, sẽ là người thay

          Và vị này là chỗ y chỉ

          Của toàn thể Tăng Sĩ Tỷ Kheo ”.

 

        – “ Thưa Ngài ! Có một Tỷ Kheo

       Được Chúng Tăng thỏa thuận theo họp bàn,

          Được các hàng Tỷ Kheo Trưởng Lão     

          Sắp đặt, bảo : “ Chính là vị này

              Sau diệt độ của Như Lai

       Sẽ là chỗ nương dựa, thay Phật-Đà

          Và chúng ta y chỉ vị ấy ? ”.

 

    – “ Này Phạm-Chí Vát-Sá-Ka-Ra !

              Không có việc ấy xảy ra ”.

 

 – “ Thưa Tôn-giả A-Nan-Đa ! Như vầy

          Không có ngay chỗ để y chỉ.

          Vậy Quý vị do có nhân gì

              Có thể hòa hợp mọi thì ? ”.

 

 – “ Này Phạm-Chí ! Không phải vì thế nên

          Chúng Tỷ Kheo dưới trên từ đó

          Đã không có chỗ để dựa nương.

              Chính Pháp vô thượng vô lường

       Là chỗ Tăng Chúng dựa nương, hợp hòa ”.

 

     – “ Tôn-giả A-Nan-Đa ! Trước đó

          Tôi hỏi có Tỷ Kheo nào mà

              Được Tôn Giả Gô-Ta-Ma

       Chỉ định thay lúc Phật qua Niết Bàn.

          Hay vị nào được hàng Trưởng Lão

          Cùng Chúng Tăng vị đạo cử ra

              Một vị Tỷ Kheo tài ba

 

       Làm chỗ y chỉ, Tăng-Già dựa nương.

          Tôi lại hỏi với phương thức đó

          Sao Quý vị lại có hợp hòa ?

              Tôn-giả lại trả lời là

       Pháp Bảo là chỗ Tăng-Già dựa nương ?

          Xin Tôn-giả tận tường giảng giải

          Ý nghĩa lời nói ấy thế nào ? ”.

 

        – “ Này Bàn-môn ! Căn cứ vào

       Những gì mà Phật trước sau chỉ bày

          Bởi vì Ngài, bậc Chánh Đẳng Giác

          Tri & Kiến-giả, là bậc Thế Tôn

              Thiết lập học-pháp viên thông

       Tuyên bố nên chúng tôi tôn quý vào.

          Giữa chúng tôi, vị nào có đủ

          Mười Pháp, mà căn cứ điều này

              Thời chúng tôi cung kính ngay,

       Tôn trọng, lễ bái vị đây, kính nhường

          Và cúng dường, an trú, nương cậy

          Nơi vị ấy. Sao gọi là Mười ?

              Bàn-Môn ! Vị ấy là người

  *  Tỷ Kheo giới hạnh mọi nơi, sớm chiều,

      *  Sống chế ngự với điều chế ngự    

          Của giới bổn Pa-Tí-Mốc-Kha  (1)     

          *  Đầy đủ oai nghi, cùng là

       Chánh hạnh nghiêm túc. Thấy là hiểm nguy

          Trong những lỗi tế vi, nhỏ nhặt

          Khi thọ trì, học tập pháp phần.

          *  Vị ấy là bậc Đa văn  

   ________________________

 

(1) : Giới bổn Patimokkhasamvarasìla :

                                                Biệt biệt giải thoát thu thúc giới. 

       Nghe nhiều học rộng, chánh chân thọ trì

          Những điều gì đã nghe, cất giữ

          Những điều tự mình đã nghe qua.

              Những pháp Sơ thiện, cùng là

       Trung thiện, Hậu thiện, văn và nghĩa đây.

      *  Nêu Phạm hạnh đủ đầy, thanh tịnh.

      *  Những pháp chính mình đã nghe nhiều

              Được thọ trì, lời nói đều

       Làm cho quen thuộc, ý đều nghĩ sâu.

      *  Được chánh kiến khéo mau ngộ nhập

      *  Vị ấy thật ‘biết đủ’ khi dùng

              Về Tứ-vật-dụng nói chung 

       Y phục, vật thực, thuốc dùng khi đau,

          Và sàng tọa nơi nào bất luận.

      *  Là người tùy ý muốn số đông 

              Không có khó khăn, bực lòng,

       Không có mệt nhọc.  * Chứng trong bốn Thiền

      *  Tăng-thượng-tâm hiện tiền lạc trú

          Thực hiện đủ thần thông các phần :

             Một thân hiện ra nhiều thân

       Nhiều thân thu lại một thân dễ dàng

          Hiện, biến hình, đi ngang qua vách

          Xuyên qua núi như cách hư không

             Độn thổ, trồi lên đất giồng

       Đi được trên nước cũng không chìm nào

          Ngồi kiết già trên cao vòi vọi

          Bay trên không như loại chim bằng

             Với tay, chạm mặt trời, trăng

       Có đại oai lực, oai thần uy linh

          Hoặc có thể tự mình bay tới

          Cõi Phạm Thiên vời vợi nơi này,

             Thần thông nhiều loại thật hay

       Tỷ Kheo vị ấy trình bày được ngay

          Tai vị này siêu nhân thuần tịnh,

          Nghe được chính âm thanh Chư Thiên

              Và loài Người khắp mọi miền

       Dù xa muôn dặm như liền bên tai.

 

          Khi vị này quán tâm biết đúng     

          Tâm loài người, tâm chúng sanh đây    

              Tâm của người khác hằng ngày. 

       Tâm tham cũng biết, không tham biết liền

          Tâm nổi sân, biết liền sân hận

          Tâm không sân không hận cũng tường

             Tâm Si hay không Si  thường

       Chuyên chú, tán loạn biết dường tự tâm

          Đại hành tâm, biết là như vậy

          Hoặc không phải là đại hành tâm

             Tâm vô thượng, biết rõ ràng

       Tâm chưa vô thượng lại càng biết thông

          Tâm thiền định hay không thiền định

          Tâm giải thoát hay dính buộc ràng

             Vị ấy đều biết rõ ràng

       Tâm của người khác ; cả hàng trí, ngu.

 

          Vị Phích-Khu hướng tâm như vậy

          Và vị ấy nhớ tới nhiều đời

             Quá khứ với một, hai đời

       Năm chục, ba bốn trăm đời đã qua

          Một ngàn đời hay là hơn nữa

          Một trăm ngàn đời thuở lâu xa

             Hoại kiếp, thành kiếp trải qua

       Vị ấy nhớ lại như là mới đây.

          Tại nơi ấy, tên này ta có

          Thuộc giai cấp, giòng họ thế này

             Uống, ăn, thọ khổ, lạc  rày

       Tuổi thọ như thế, chết ngày ra sao

          Ta tái sinh, nhằm vào làng đó

          Có tên tuổi, giòng họ thế nào…

             Cứ thế, nhớ lại biết bao

       Tiền kiếp, tái kiếp không sao đếm vầy.

 

          Tâm vị ấy thẳng ngay, thuần tịnh

          Do giới, định dẫn tới tuệ minh

             Xét về sinh tử chúng sinh

       Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy liền

          Vị ấy biết mối giềng Nghiệp quả

          Người hạ liệt, kẻ cả giàu sang

             Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn

       Đều do hạnh nghiệp trắng đen họ làm.

          Gieo ác hạnh về thân, khẩu, ý

          Hoặc phỉ báng các vị Thánh Hiền

             Người này thân hoại, tận duyên     

       Do nghiệp tà kiến, đọa liền súc sinh

          Các cõi dữ, như sinh địa ngục

          Hoặc đọa xứ, thằng thúc nạn tai.

 

          * Còn bậc hiền giả, những ai

       Làm những thiện hạnh  ý và lời, thân

          Không phỉ báng Hiền nhân, Thánh hiển

          Tạo nghiệp lành, chánh kiến vô cùng

             Sau khi thân hoại mạng chung 

       Được sinh thiện thú, nhân trung, cõi trời

          Do thiên nhãn, biết đời sống chết

          Người hạ liệt hay kẻ giàu sang

             Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn

       Người này bất hạnh, kẻ bèn gặp may

          Do hạnh nghiệp kẻ này hành động

          Có kết quả chẳng giống nhau này.

             Luân hồi tùy nghiệp chuyển xoay

       Không ai tránh khỏi trả vay nghiệp này.

 

          Rồi vị đây hướng tâm đến với

          Lậu-tận-trí, dẫn tới biết rành

              Về chúng sanh biết ngọn ngành

       Đây là sự Khổ, nguyên nhân đưa vào

          Đây Khổ Diệt, đường nào diệt khổ

          Biết như thật lậu-hoặc loại này

             Nguyên nhân lậu-hoặc là đây

       Diệt trừ lậu-hoặc, biết ngay con đường.

          Nhờ hiểu biết, tận tường nhận thức

          Tâm vị ấy rất mực sáng trong

             Dục-lậu, hữu-lậu  thoát xong

       Thoát vô-minh-lậu, khỏi vòng trói trăn.

 

          Này Vũ-Thế  Đại thần ! Như vậy

           Mười khả-hỷ-pháp ấy thuyết ra

               Do đấng Thế Tôn, Phật Đà

       Tri-giả, Kiến-giả, A-La-Hán này,

          Bậc Chánh Giác giảng bày như thế,

          Giữa chúng tôi cặn kẽ thuyết ra.

              Vị có Mười Pháp sâu xa

       Chúng tôi cung kính, thiết tha cúng dường,

          Chúng tôi thường nương tựa, an trú

          Vị đầy đủ Mười Pháp trải qua ”.

 

              Nghe xong, Vũ-Thế  tức là  

       Bàn-môn Vát-Sá-Ka-Ra Đại thần         

          Nói với vị Tướng-quân tùng giả

          Là U-Pa-Nan-Đá đứng sau :  

 

        – “ Này Tướng-quân ! Nghĩ thế nào ?

       Nếu là như vậy, nghĩ sâu xa thì

          Những Tôn-giả trọng vì, cung kính

          Những ai đáng cung kính, trọng vì,

              Lễ bái ai đáng lễ quy,

       Cúng dường ai đáng uy nghi cúng dường.

          Chắc chắn thường những Tôn-giả ấy

          Sẽ cung kính, lễ lạy bậc này.

 

              Và nếu những Tôn-giả đây

       Không cung kính, lễ,hay cúng dường

          Tỷ Kheo này, thời thường vị ấy

          Sẽ cung kính, lễ lạy ai đây ? ”.   

 

              Rồi vị Bà-la-môn này   

       Hướng đến Tôn-giả, như vầy thưa qua :

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Hiện ngài đang ngụ

          Tại trú xứ nào đó gần xa ? ”.

 

        – “ Bàn-môn ! Trú xứ của ta

       Vê-Lu-Vá-Ná tức là Trúc Lâm ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Trúc Lâm có phải

          Là một chỗ khả ái, tịnh an,

              Ít tiếng ồn, xa cư dân,

       Được che gió, thích hợp phần Thiền-na ? ”.

 

     – “ Tinh Xá này đúng là như vậy

          Rất khả ái, an tịnh, ít ồn,

              Xa cách dân cư quá đông ,

       Thích hợp Thiền tịnh, xứng trong mọi thời

          Với những người hộ trì, thủ hộ

          Như ngài đây, là chỗ đàn-na ”.

 

        – “ Thưa Tôn-giả A-Nan-Đa !

       Thật vậy, Vê-Lú-Va-Na chính là

          Nơi thích hợp trải qua Thiền tịnh,

          Xứng với người chân chính tu Thiền,

              Thiên về nhập định tham thiền.

 

       Thưa Tôn-giả ! Tôi nhớ liền trước đây   

          Khi mà Ngài Kiều-Đàm Tôn Giả

          Vê-Sa-Li Ngài đã trú qua

              Ku-Ta-Gá-Rá-Sa-La              ( Kutagarasala )

     ( Giảng đường Trùng Các cũng là nơi đây ).

          Rồi thưa ngài A-Nan Tôn-giả !

          Tại Ma-Ha-Vá-Ná (Đại Lâm ),

              Tôi đã có dịp đến thăm

       Kiều-Đàm Tôn Giả với tâm kính Ngài

          Ở nơi đây, Kiều-Đàm Tôn Giả

          Nhiều phương tiện Ngài đã thuyết ra

              Về Thiền-định-luận sâu xa.

       Ngài Tôn Giả Gô-Ta-Ma thuộc về

          Vị tu thiền, thiên về Thiền-định,

          Tán thán mọi Thiền-định ở đời ”.    

 

        – “ Này Bàn-môn ! Chớ quá lời !

       Thế Tôn không tán thán nơi vấn đề

          Tất cả về Thiền-định, khi giảng

          Cũng không không tán thán mọi Thiền.

              Này Bà-la-môn ! Trước tiên

       Loại nào Thiền-định Ngài liền nói ra

          Không tán thán Thiền-na như thế ?

          Này Bàn-môn ! Được kể đến là

              Một số vị đã sống qua

       Tâm thấm nhuần dục-tham và mê đam

          Bị dục tham chi phối mọi mặt,

          Không như thật biết giải thoát điều

              Dục tham đã khởi lên nhiều

       Dục là đối tượng tối siêu vị này,

          Thiền tu, thiền tư hay thiền định

          Và thiền nhập. Cũng chính vị này

              Tâm thấm nhuần sân hận đầy,

       Sân hận chi phối vị đây mọi thời,

          Không như thật biết nơi giải thoát

          Khỏi sân hận đã phát khởi ra,

              Vị ấy lấy sân hận là

       Đối tượng tối hậu để mà thiền tu

          Hay thiền tư, thiền định, thiền nhập.

 

          Vị ấy sống đầy ắp với tâm

              Thấm nhuần thụy miên hôn trầm,

       Thấm nhuần trạo hối, thấm nhuần lòng nghi

          Bị những gì vừa kể chi phối

          Không như thật biết lối thoát ra

              Khỏi năm Triền Cái xấu xa

       Đã được phát khởi thông qua vị này.

          Lại chọn ngay năm triền-cái xấu

          Làm đối tượng tối hậu đồng cư

              Thiền định, thiền tu, thiền tư

       Bàn-môn ! Những Thiền-định như thế thì

          Đấng Toàn Tri không hề tán thán.

 

          Loại nào được tán thán ở đây ?

              Vi Tỷ Kheo ly dục này,

       Ly bất thiện pháp, chứng ngay trú liền

          Đệ Nhất Thiền, trạng thái hỷ lạc,

          Do ly dục nên phát sanh ra

              Với tầm, với tứ chan hòa.

       Rồi diệt tầm, tứ  – chứng qua Nhị Thiền

          Hỷ lạc liền được sanh bởi định,

          Không tầm, tứ  – nội tĩnh nhất tâm.

              Ly hỷ trú xả âm thầm

       Chánh niệm tỉnh giác thì thân cảm liền

          Sự lạc thọ, Thánh hiền gọi đủ

          Là ‘xả niệm lạc trú’ trải qua,

              Chứng, trú vào Thiền thứ Ba

       Xả lạc, xả khổ, diệt mà hỷ ưu

          Đã cảm thọ, Tỷ Khưu chứng, trú

          Thiền Đệ Tứ, không khổ, lạc chi

              Xả niệm thanh tịnh tức thì.

       Loại Thiền-định ấy được vì Thế Tôn

          Luôn tán thán pháp môn Thiền ấy ”.

 

    – “ Quả thật vậy, ngài A-Nan-Đa ! 

              Chính Tôn Giả Gô-Ta-Ma

       Khiển trách Thiền-định đáng là trách la,

          Tán thán Thiền đáng mà tán thán.

 

          Thưa Tôn-giả ! Đến hạn phải đi 

              Chúng tôi có việc cần đi

       Có nhiều phận sự, nên chi kiếu ngài ”.

 

    – “ Bàn-môn này ! Hãy làm  những việc

          Ông nghĩ, biết hợp thời, phải cần ”.

 

              Rồi Bà-la-môn Đại thần 

       Vát-Sa-Ka-Rá khởi thân tức thì

          Đứng dậy, từ giả đi khỏi đó.

          Khi vị nọ đi chẳng bao xa

              Bà-la-môn Gô-Pa-Ka          

       Mốc-Ga-La-Ná thưa qua lời này :

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Ta nay tiếp tục

          Về kết cục câu chuyện vừa qua

              Nếu chúng tôi không hỏi ra

       Thời Tôn-giả A-Nan-Đa vừa rồi

          Đã không phải trả lời như vậy ? ”.

 

    – “ Này Bàn-môn ! Có phải tôi đây  

              Đã nói với ông như vầy :

     ‘Không một Phích-Khú nào hay thực hành

          Để tựu thành Mười Pháp như thế

          Thật triệt đề, trọn vẹn, đủ đầy.

              Những pháp mà Thế Tôn Ngài

      Chánh Đẳng Chánh Giác, Như Lai tựu thành.

         Này Bàn-môn ! Tịnh thanh Đại Giác

         Bậc làm cho khởi phát con đường

             Chưa từng có, chẳng ai tường.

       Làm cho biết đến con đường minh quang.

          Nói lên một con đàng từ trước

          Đã chưa được nói đến, trình bày.

              Là bậc hiểu đạo sâu dày,

       Thiện xảo về đạo, khứ lai hoàn toàn.

 

          Và đến nay, các hàng đệ tử    

          Vẫn tuần tự như pháp thực hành

              Hành đạo, tùy hành tịnh thanh

       Và sẽ thành tựu pháp lành về sau  ./-   

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*  *  *

 

(  Chấm dứt Kinh 108 :  GOPAKA MOGGALÀNA –

            GOPAKA MOGGALLÀNA  Sutta  )
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/10/2010(Xem: 2605)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7768)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2838)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12371)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2718)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8438)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
01/10/2010(Xem: 9882)
Có, không chỉ một mà thôi, Tử, sinh đợt sóng chuyển nhồi tạo ra. Trăng nay, trăng cũng đêm qua, Hoa cười năm mới cũng hoa năm rồi. Ba sinh, đuốc trước gió mồi, Tuần hoàn chín cõi, kiến ngồi cối xay. Tới nơi cứu cánh sao đây ? Siêu nhiên tuệ giác, vẹn đầy “Sa ha” (Thích Tâm Châu dịch )
01/10/2010(Xem: 4227)
Là con người, ai cũng có đủ tính tốt và xấu, nên thực tế rất khó nhận định về tính cách của chính mình, của một người khác, huống chi là nói về tính cách của cả một dân tộc. Tuy vấn đề phức tạp và đôi khi mâu thuẫn, nhưng tôi cũng xin cố gắng đưa ra một số nét tiêu biểu của người Nhật.
28/09/2010(Xem: 5499)
Bao gồm nhiều ngạn ngữ dân gian phản ánh đời sống tâm lý của người dân TQ trong xã hội xưa, “ Tăng quảng hiền văn” là sự thể hiện tư tưởng của Nho Giáo, Đạo Giáo, Lão Giáo, mang tính triết lý cao. 1 Tích thì hiền văn, hối nhữ truân truân, tập vận tăng quảng, đa kiến đa văn. Lời hay thuở trước, răn dạy chúng ta, theo vần cóp nhặt, hiểu biết rộng ra. 2 Quan kim nghi giám cổ, vô cổ bất thành kim. Xem nay nên xét xa xưa, ngày xưa chẳng có thì giờ có đâu. 3 Tri kỷ tri bỉ , tương tâm tỷ tâm. Biết mình phải biết người ta, đem lòng mình để suy ra lòng người. 4 Tửu phùng tri kỷ ẩm, thi hướng hội nhân ngâm. Gặp người tri kỷ ta nâng cốc, thơ chỉ bình ngâm mới bạn hiền. 5 Tương thức mãn thiên hạ, tri tâm năng kỷ nhân. Đầy trong thiên hạ người quen biết, tri kỷ cùng ta được mấy người. 6 Tương phùng hảo tự sơ tương thức, đáo lão chung vô oán hận tâm. Gặp lại vui như ngày mới biết, chẳng chút ăn năn trọn tới già.
27/09/2010(Xem: 3090)
Có người không hiểu Phật, than Phật giáo tiêu cực, nói toàn chuyện không vui. Từ đó Tăng ni chỉ được nhớ tới trong những ngày buồn như đám tang, cúng thất, cầu an cho người sắp đi. Rồi thì người ta còn đi xa hơn, xuống thấp hơn một tí, là khi nói đến Tăng ni là họ tưởng ngay đến những người mất sạch, một cọng tóc cũng không có. Thậm chí họ cho mình cái quyền châm chọc khiếm nhã khi nhìn thấy Tăng ni đâu đó. Một chuyện mà có uống mật gấu họ cũng không dám làm đối với những người thế tục cạo trọc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567