Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

46. Đại Kinh Pháp Hành

19/05/202010:22(Xem: 7374)
46. Đại Kinh Pháp Hành

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com



46. Đại Kinh PHÁP HÀNH
(Mahàdhammasamàdàna sutta)
 
Như vậy, tôi nghe :
 
Một thời, đức Thế Tôn Thiện Thệ
          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ  trú qua
              Tinh Xá Chê-Tá-Va-Na
Do Cấp-Cô-Độc tín gia cúng dàng.
          Thế Tôn gọi các hàng Phích-Khú :   
 
    – “ Các Phích-Khú ! Tác ý, nghe đây ! ”
 
              Chúng Tỷ Kheo vâng lời Ngài.
       Thế Tôn liền giảng vào ngay vấn đề :
 
    – “ Các Tỷ Kheo ! Nói về một số
          Loài hữu tình luôn có dục vầy,
              Có ước vọng như thế này,
Có nguyện vọng như thế này, thốt ra :
 
         ‘Ôi ! mong là pháp bất khả ái,
          Bất khả lạc, bất khả ý này
Đều được tiêu diệt hết ngay.
       Mong rằng các pháp như vầy kể ra :
          Đáng yêu, đáng vui và vừa ý
          Được hoàn mỹ, tăng trưởng lâu dài’.
 
              Các Tỷ Kheo ! Dẫu các loài
       Hữu tình như vậy muốn hoài như trên,
          Có ước vọng nêu lên như vậy,
          Có nguyện vọng như vậy thật tình,
              Sự việc trái ngược ý mình
Trung Bộ (Tập 2)  Đại Kinh 46 :  PHÁP HÀNHMLH  –  126
 
       Chỉ bất như ý, bất bình ở trong !
          Các Tỷ Kheo ! Các ông có biết
          Nguyên nhân gì của việc ấy không ? ”.
 
        – “ Bạch Thế Tôn ! Đấng viên thông !
       Với chúng con biết, pháp đồng thuận ngay
Dựa căn bản vào Ngài, tuần tự
          Hướng đến sự lãnh đạo của Ngài,
              Nương tựa, y cứ Như Lai .
       Bạch Thế Tôn ! Tốt lành thay nếu Ngài
          Thuyết giảng ý nghĩa này tròn đủ,
          Chúng Phích-Khú (1) sẽ khéo hành trì ”.
 
– “ Này các Tỷ Kheo ! Vậy thì
Hãy nghe, tác ý minh tri pháp này ”. 
 
    – “ Kính bạch Ngài ! Từ bi thuyết pháp ”.
 
          Chúng Tỷ Kheo vâng đáp Phật Đà .
              Thế Tôn nghiêm tịnh thuyết ra :
 
 – “ Này Tỷ Kheo Chúng ! ( Trải qua như vầy
          Cõi trần hoàn dẫy đầy triền phược
          Làm sao phân biệt được trí ngu ? )
              Những kẻ vô văn phàm phu
       Không đến yết kiến thuần từ Thánh nhân
          Không thuần thục pháp phần bậc Thánh
          Không tu tập pháp Thánh chánh chân,
              Không yết kiến các Chân nhân
       Không thuần thục pháp Chân nhân các phần
          Không tu tập Chân nhân các pháp,
          Không biết rõ các pháp nêu lên
    _______________________________
 
   (1) :  Bhikkhu – Tỳ-Khưu  hay  Tỷ-Kheo – là hàng xuất gia thọ
         Đại giới , đứng vào hàng ngũ Tăng-Già ( Sangha ).
Trung Bộ (Tập 2)  Đại Kinh 46 :  PHÁP HÀNHMLH  –  127
 
              Nên phục vụ hay không nên,
       Không nên thân cận hay bèn cận thân.
          Vì không rõ pháp cần phục vụ
          Nên phục vụ các pháp không cần
              Không phục vụ các pháp cần
       Thân cận các pháp không cần cận thân,
          Không thân cận pháp cần thân cận,
          Cho nên dẫn đến sự đảo điên
              Pháp bất khả ái, muộn phiền
       Bất khả lạc, trái ý liền tăng nhanh.
          Pháp khả ái, an lành, khả lạc
          Cùng pháp khác : khả ý diệt tiêu.
              Vì sao vậy ? Chính là điều
       Người ấy vô trí đối điều pháp đây.
 
          Các Tỷ Kheo ! Giới hay gìn giữ,
          Đa văn Thánh đệ tử vị này
           ( Tâm luôn nghiêm tịnh thẳng ngay )
       Đi đến yết kiến các ngài Thánh nhân,
          Thuần thục các pháp phần bậc Thánh,
          Tu tập pháp bậc Thánh chánh chân.
              Yết kiến các bậc Chân nhân,  
       Thuần thục pháp bậc Chân nhân các phần,
          Thường tu tập Chân nhân các pháp,  
 
          Nên biết rõ các pháp nêu lên
              Nên phục vụ hay không nên
       Không nên thân cận hay bèn cận thân.
          Vì biết rõ pháp cần phục vụ
          Nên phục vụ các pháp nào cần,
              Không phục vụ pháp không cần,
       Thân cận các pháp nào cần cận thân,
Trung Bộ (Tập 2)  Đại Kinh 46 :  PHÁP HÀNHMLH  –  128
 
          Không cận thân pháp không cần cận.
          Cho nên dẫn đến sự an nhiên
              Pháp không đáng yêu diệt liền
       Không thể vui, trái ý, phiền… diệt nhanh.
          Pháp khả ái, an lành, khả lạc
          Cùng pháp khác : toại ý… tăng cùng. 
              Vì sao vậy ? Vì tựu trung
       Người ấy có trí đối cùng pháp đây .
 
          Tóm lại, pháp hành này bốn loại
          Sao là bốn ?  Có loại pháp hành
          –  Hiện tại an lạc thấy rành
       Tương lai khổ báo sẵn dành cho y.
      –  Có pháp hành ở thì hiện tại
          Đau khổ, tương lai lại khổ đau.
          –  Có pháp hành hiện khổ đau
 Quả báo an lạc về sau sẵn dành.
      –  Có pháp hành hiện nay an lạc
Tương lai cũng an lạc, tốt lành.
 
( Kẻ vô trí )
 
              Này các Tỷ Kheo ! Pháp hành
     ‘Hiện tại khổ, tương lai dành khổ đau’.
           Hoặc pháp hành thuộc vào dạng khác :
         ‘Hiện tại lạc, tương lai khổ đau’.
              Này các Tỷ Kheo ! Trước sau
       Pháp hành hai dạng này mau suy bì.
          Do vô trí, bất tri với pháp
          Do si mê uế tạp mọi phần
              Nên không tuệ tri như chân :
      ‘Pháp hành hiện tại muôn phần khổ đau,
          Tương lai sau quả báo cũng khổ’.
Trung Bộ (Tập 2)  Đại Kinh 46 :  PHÁP HÀNHMLH  –  129
 
          Hoặc không có tuệ tri như vầy :
             ‘Pháp hành hiện tại lạc đây
       Tương lai quả khổ’ sâu dày, bất dung.
          Do vô trí đối cùng pháp ấy
          Do si mê chẳng thấy hiểm nguy,
              Cho nên phục vụ pháp ni
       Cũng không tránh né mà tùy thuận ngay.
          Vì cớ ấy, đêm ngày tăng trưởng
          Về các pháp đem chướng ngại nhiều :
              Không thể vui, không đáng yêu
       Không thể vừa ý – sớm chiều tăng cao.
          Các pháp nào đáng yêu, vừa ý
Đáng vui thú – sẽ bị diệt chung.
              Vì sao vậy ? Vì tựu trung
       Người ấy vô trí đối cùng pháp đây.
 
          Các ông ! Pháp hành này có khác :
        ‘Hiện tại khổ, an lạc tương lai’.
             ‘Hiện tại lạc, lạc tương lai’.
 Do vô trí với pháp đây mọi thì.
          Si mê, không tuệ tri chân thật :
         ‘Đây pháp hành tính chất khổ đầy
              Nhưng quả báo lạc tương lai’.
       Hay : ‘Hiện tại lạc, tương lai lạc’ đồng.
          Do vô trí đối trong pháp ấy
          Si mê mãi, không tuệ tri ngay,
              Nên không phục vụ pháp này
       Cố ý tránh né pháp này, không theo.
 
          Các Tỷ Kheo ! Pháp bất khả ái,
          Bất khả lạc, bất khả ý… đều
 Tăng trưởng mọi lúc, sớm chiều.
Trung Bộ (Tập 2)  Đại Kinh 46 :  PHÁP HÀNHMLH  –  130
 
       Các pháp : vui vẻ , mỹ miều đáng yêu,
  Pháp vừa ý… cũng đều tiêu hủy,
     Vì vô trí đối với pháp này.
 
( Người trí )
 
              Các Tỷ Kheo ! Còn ở đây
       Đối với các pháp vị này nghiệm ngay :
         ‘Pháp hành này hiện tại đau khổ,
          Tương lai quả báo khổ sẵn sàng’.
              Hoặc : ‘Pháp hành hiện lạc an,
       Tương lai khổ báo’ mọi đàng họa thâm.
 
          Do có trí, do tâm sáng suốt
          Nên tuệ tri thông suốt như chân :
             ‘Pháp hành trên, cả hai phần
       Không phục vụ, tránh né phần pháp đây.
          Các pháp này : Không đáng yêu ấy,
          Không thể vui, không toại ý điều
       Các pháp ấy bị diệt tiêu.
       Còn các pháp khác : Đáng yêu, hài lòng,
          Và đáng vui – thì đồng tăng trưởng.
          Vì sao vậy ? Tư tưởng vị này
        Có trí đối với pháp đây.
 
       Này các Phích-Khú ! Như vầy hiểu nhanh :
          Có ‘pháp hành hiện tại khổ não,
          Nhưng quả báo tương lai lạc an’.
 
              Hoặc : ‘Pháp hành hiện lạc an,
       Tương lai quả báo lạc an’ cũng vầy.
          Do vị này có trí với pháp,
          Tâm sáng suốt hiểu pháp chánh chân,
              Vị này tuệ tri như chân
Trung Bộ (Tập 2)  Đại Kinh 46 :  PHÁP HÀNHMLH  –  131
 
       Pháp hành của cả hai phần như trên.
          Vì thế nên phục vụ pháp ấy,
          Không tránh né pháp ấy mảy may, 
              Cho nên các pháp như vầy :
       Không thể vui vẻ, không rày đáng yêu,
          Không vừa ý – thảy đều tiêu diệt.
          Các pháp thiệt đáng vui, đáng yêu,
   Và vừa ý – tăng trưởng nhiều.
       Vì sao vậy ? Vì chính điều ở đây
          Là vị này có trí với pháp,
          Tâm sáng suốt hiểu pháp thẳng ngay.
 
( Bốn pháp )
 
              Các Tỷ Kheo ! Thế nào đây ?
  * ‘Pháp hành hiện khổ, tương lai khổ’ đời ?
 
          Các Tỷ Kheo ! Có người được thấy
          Với khổ & ưu – kẻ ấy sát sanh
         Thọ khổ ưu do sát sanh.
       Với ưu, với khổ – y sanh gian tà
          Của không cho, cố mà cướp lấy,
     Do duyên ấy cảm thọ khổ ưu.
              Lại có người, với khổ & ưu   
       Sống theo tà hạnh, lòng cưu dục đầy
   Do duyên này, khổ ưu cảm thọ.
          Với khổ & ưu , lại có dối lời,
              Nói hai lưỡi, phù phiếm chơi,
       Nói lời ác ngữ chẳng ngơi đêm ngày,
   Do duyên này, khổ ưu cảm thọ.
          Với khổ & ưu, tâm có ái tham 
              Tâm có sân hận ngập tràn,
       Tâm có tà kiến do đang si đầy,
Trung Bộ (Tập 2)  Đại Kinh 46 :  PHÁP HÀNHMLH  –  132
 
   Do duyên này, khổ ưu cảm thọ.
          Nên vị đó sau khi mạng chung
              Sinh vào cõi dữ khốn cùng,
       Đọa xứ, địa ngục muôn trùng khổ đau.
 
          Còn thế nào pháp hành dạng khác :
      * ‘Hiện tại lạc, tương lai khổ đau’ ?
 
              Có người với lạc, hỷ nào
       Sát sanh, trộm cướp, phạm vào tà dâm,
          Hoặc nói láo, ác tâm mà nói,
          Phù phiếm, nói hai lưỡi điêu ngoa.
              Do duyên như vừa kể ra
       Cảm thọ lạc, hỷ trải qua âm thầm.
 
          Hoặc do duyên có tâm tham ái,
          Có tà kiến, tâm mãi hận sân
              Cảm thọ lạc, hỷ lâng lâng,
       Sau khi thân hoại, muôn phần khổ đau
          Sinh ác thú, sinh vào cõi dữ
  Cõi đọa xứ, địa ngục… dài lâu.
 
              Các Tỷ Kheo ! Pháp hành nào
  * ‘Hiện tại đau khổ, về sau vui lành’ ?
 
          Với khổ & ưu sẵn dành, người đó
          Đã từ bỏ trộm cướp, sát sanh
              Từ bỏ tà hạnh nhơ danh
       Bỏ nói láo, nói chẳng lành, nói chơi,
          Từ bỏ lời điêu ngoa hai lưỡi
  Từ bỏ lời mắng chưởi bất nhân.
   Từ bỏ tà kiến, tham, sân
       Do duyên như vậy, cảm phần khổ ưu,
          Sau khi chết, phước lưu sinh tới
Trung Bộ (Tập 2)  Đại Kinh 46 :  PHÁP HÀNHMLH  –  133
 
          Vào thiện thú, Thiên giới, đời này.
 
              Còn thế nào pháp hành đây
      ‘Hiện tại an lạc, sau này lạc an’ ?
          Có người đang với lạc & hỷ đó,
          Đã từ bỏ sát sanh bợn nhơ,
              Từ bỏ lấy của không cho,
    Từ bỏ tà hạnh làm do dục tà.
          Do duyên mà từ bỏ như vậy
    Nên người ấy cảm thọ lạc an.
 
              Tiếp đó,người ấy sẵn sàng
       Từ bỏ nói dối, nói gian hai lời,
          Từ bỏ lời ác ngữ, phù phiếm,
          Từ bỏ tham, độc hiểm hận sân,
    Luôn có chánh kiến như chân.
 
       Do duyên các thứ kể phần trên đây
     Cảm thọ ngay lạc và hỷ đấy.
          Khi vị ấy thân hoại mạng chung
              Sinh lên thiện thú, Thiên cung
       Hoặc tái sinh lại, vô cùng sướng thay !
 
( Ví dụ )
 
          Các ông này ! Ví như trái bí    
          Đắng, lại bị tẩm thuốc độc vào
              Một người muốn sống xiết bao !
       Không muốn bị chết, luôn cầu vui an,
          Hiềm ghét khổ vô vàn vô hạn.
          Một người bạn nói với người này :
 
        – “ Này bạn ! Trái bí đắng đây
       Có tẩm thuốc độc, chết ngay nếu dùng       
          Nếu bạn muốn, hãy dùng bí đó
Trung Bộ (Tập 2)  Đại Kinh 46 :  PHÁP HÀNHMLH  –  134
 
          Trong khi ăn, đừng có suy lường
              Không thích thú sắc, vị, hương
       Ăn xong  có thể có đường mạng vong,
          Hay đau khổ cũng đồng như chết ”. 
          Không từ bỏ, chẳng mệt nghĩ suy       
              Y có thể ăn tức thì
       Dù ăn không thích thú chi mọi bề
Phương diện về sắc, hương và vị.
          Ăn xong bí, đau khổ tột cùng
      Hay là lập tức mạng chung.
       Pháp hành Ta bảo giống cùng dụ đây :
         ‘Hiện tại khổ, tương lai cũng khổ’.
 
          Ví dụ khác, như có bình đồng
              Chiếc bình đựng nước ở trong
       Có sắc, hương, vị ; nhưng không an toàn
  Vì nước đang tẩm đầy độc dược.
          Có người luôn muốn được thọ tràng
              Không muốn chết, muốn lạc an
       Lại hiềm ghét khổ vô vàn, ghét cay !
          Có người gặp người này, nói trước :
       “ Này ông bạn ! Bình nước bằng đồng
              Đựng nước thơm, ngọt, màu hồng
       Có tẩm thuốc độc vào trong bình này.
          Nếu muốn, hãy uống ngay nước đó
          Khi uống nó, sẽ thích thú nhiều
              Đẹp, thơm, ngọt biết bao nhiêu !  
       Nhưng sẽ trúng độc mà tiêu mạng liền,
          Hoặc đau đớn vô biên vô độ ”.
 
          Người đó uống, không bỏ, không gờm
              Khi uống, thích thú hương thơm,
Trung Bộ (Tập 2)  Đại Kinh 46 :  PHÁP HÀNHMLH  –  135
 
       Vị ngọt, màu đẹp, đả cơn khát này.
          Các Tỷ Kheo ! Pháp đây giống với
          Như ví dụ nói tới trên đây :
             ‘Hiện tại lạc, khổ tương lai’.
 
       Còn ví dụ khác trình bày  rõ vô :
          Nước đái quỷ – A-mô-ni-ắc  (1)
          Được trộn thật nhiều thuốc trong này
              Trị bệnh hoàng đản (2) thật hay
       Có kẻ mắc bệnh, gặp may có người
          Chỉ tức thời : “ Bạn này ! Hãy uống
          Nước đái quỷ trộn thuốc vào chung
              Mùi nó khai thối vô cùng
       Khi uống, chẳng thích thú dùng nó đâu !
          Nhưng an lạc ngay sau khi uống,
          Nếu bạn muốn dứt bệnh, uống đi ! ”.
              Không từ bỏ, không nghĩ suy
       Người ấy đã uống đến khi bệnh lành.
          Các Tỷ Kheo ! Pháp hành giống với
          Như ví dụ vừa mới trình bày :
             ‘Hiện tại khổ, lạc tương lai’.
 
       Còn ví dụ khác : Lấy rày thục tô
          Lạc, mật, đường trộn vô cho kỹ
          Có thể trị bệnh kiết lỵ mau
              Có người kiết lỵ bị đau
       Gặp một người tốt hiểu sâu, nói là :
        “ Này ông bạn ! Đây là lạc, mật,
          Thục tô, đường trộn lẫn với nhau
    _______________________________
 
 (1) : Amoniac  – NH3 : gọi là nước đái quỷ , mùi rất khai nồng.
(2) : Hoàng đản là chứng bệnh vàng da, nước tiểu vàng sậm , do
    tăng lượng bilirubin ở máu ( do gan hay do hệ thống dẫn mật ).
Trung Bộ (Tập 2)  Đại Kinh 46 :  PHÁP HÀNHMLH  –  136
 
              Nếu bạn muốn, hãy uống mau
       Ngọt ngon với vị, sắc màu, mùi hương          
          Thích thú dường cam lồ khi uống,
          Sau khi uống, hiệu quả tức thì ”.
              Không từ bỏ, có nghĩ suy
       Người ấy đã uống tức thì thuốc đây,
Bịnh kiết lỵ người này dứt khỏi.
          Các Tỷ Kheo ! Ta nói pháp hành
              Giống với ví dụ giải rành :
      ‘Hiện tại an lạc,  an lành tương lai’.
 
          Tăng Chúng này ! Có ví dụ khác :
          Trời bàng bạc vào cuối mùa mưa
              Vào thu, gặt hái đúng mùa
       Khí trời quang đãng, gió đùa không mây,
          Mặt trời mọc lên ngay, rực rỡ
          Giữa bầu trời, phá vỡ đêm đen
              Phá sạch hắc ám tối hèn
       Cả hư không như rực đèn sáng trưng.
          Rực sáng, phá sạch rừng dị thuyết
          Của cá biệt Phạm-chí, Sa-môn,
              Tầm thưởng ( sử dụng ngụy ngôn ).
       Pháp hành tiêu biểu đáng tôn quý này :
         ‘Hiện tại lạc, tương lai cũng lạc’.     
          Rực sáng chói, phá các tà gian ”.
 
              Nghe Phật thuyết, đều hân hoan
       Chư Tăng tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
 
*   *     *
 
(Chấm dứt Kinh số 46  :  Đại Kinh PHÁP HÀNH   – MAHÀDHAMMASAMÀDÀNA   Sutta  )
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7753)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8797)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2832)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4352)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2630)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7884)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12494)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8544)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567