Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Tiểu Kinh Sư Tử Hống

18/05/202019:52(Xem: 9002)
11. Tiểu Kinh Sư Tử Hống

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com



11. Tiểu Kinh SƯ TỬ HỐNG

( Cùlasìhanàda sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ(1)

An trú tại Xá-Vệ(2) thành này

Sa-Vát-Thí (2) cũng là đây

Kỳ Viên Tinh Xá(3) hôm mai tịnh, hòa

 Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná(3)

Khu vườn do Trưởng giả tên là

A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka

Tức Cấp-Cô-Độc , thuần hòa tín gia

Mua lại từ Kỳ Đà thái tử

Để cúng dường Điều Ngự Thế Tôn

Cùng với Tăng đoàn Sa-môn

    _______________________________

 (1) : Hai trong 10 danh hiệu ( Thập Hiệu ) do người đời tôn xưng

         Đức Phật : Thế Tôn ( Bhagavà ) và Thiện Thệ ( Sugato ).

 (2) : Thành Xá Vệ tức Savatthi (Thất-La-Phiệt) một trung tâm văn 

     hóa, thương mại và chính trị quan trọng tại Ấn Độđương thời .   

(3) : Jetavanavihàra : Kỳ Viên  hay  Kỳ Hoàn Tinh Xá ,do Trưởng  

giả Cấp-Cô-Độc ( Anathapindika – tên thật là Sudatta – Tu-Đạt ) mua lại từ  khu vườn của Thái Tử KỳĐà (Jeta ) gần Thành Xá Vệ (Savatthi ) dâng cho Đức Phật .      Tại đây đức Phật đã nhập hạ nhiều lần và nhiều Kinh quan trọng đãđược Phật thuyết ra .

Vì Trưởng giả Cấp-Cô-Độc đã dùng vàng lót trên mặt đất để mua cho được khu vườn theo lời thách của  Thái Tử  KỳĐà , nên chùa này còn được gọi là Bố Kim Tự (chùa trải vàng ). Cảm phục tấm lòng nhiệt tâm vìđạo của Trưởng Giả, Thái Tử hoan hỷ cúng toàn bộ cây trái trong vườn đến Phật và Tăng chúng ,  nên ngôi chùa thường được gọi với danh xưng : Jetavana Anàthapindikàràma

–  Kỳ Thọ Cấp-Cô-Độc Viên ( vườn Cấp-Cô-Độc, cây KỳĐà ). 

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –154

 

       Có nơi hoằng hóa pháp môn nhiệm huyền.

          Lúc bấy giờ Phật liền cho gọi

          Chúng Tỷ Kheo câu hội đủđều

              Phật gọi : “ Này các Tỷ Kheo ! ”

       Chúng Tăng cung kính vâng theo lời Ngài.

 

          Các Tỷ Kheo ! Ởđây chân thật

          Có Sa Môn thứ nhất, thứ hai

              Sa Môn thứ ba – Bất Lai

       Sa Môn thứ bốn – Khứ lai không còn.

           Các ngoại đạo Sa Môn không có.

           Từđiều đó, Tăng Chúng chánh chân

              Tiếng sư tử hãy rống ngân.

       Này Tỷ Kheo Chúng ! Khi nhân sự tình

           Những ngoại đạo bất minh du sĩ

           Có thể nghĩ và nói sân si :

–    ‘Chư Tôn-giả tin tưởng gì

       Hay là có sức lực gì thật hay

           Mà tuyên bố : Chỉđây mới có

           Bậc Sa Môn sáng tỏ nghiêm oai

               Sa Môn thứ nhất, thứ hai

       Thứ ba, thứ bốn ; đức tài Thinh Văn ?

          Còn tự mãn cho rằng ngoại giáo

          Không hề có Thánh đạo Sa Môn !’.

              Nên giữ thái độôn tồn

        Trả lời :  – “ Chư vị ! Đừng nôn nóng gì !

          Nói thế, vì chúng tôi chánh kiến

          Bốn pháp được phương tiện dạy ra

               Theo lời của đấng Phật Đà

        Bậc đã thấy, biết ; hằng hà Trí Bi

Đại La-Hán, Toàn Tri, Chánh Đẳng

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –155

 

          Nên chúng tôi đã khẳng định rồi :

              Trong Pháp, Luật của chúng tôi

       Đầy đủ bốn bậc tuyệt vời Sa Môn

          Là thanh tịnh Sa Môn thứ nhất

          Cùng các bậc thứ hai, thứ ba

              Sa Môn thứ tư tịnh hòa.

 (Thinh Văn Tứ Thánh chính làởđây

          Tu-Đà Hoàn – Thất Lai đạo, quả(1)

          Tư-Đà-Hàm –đạo quả Nhất Lai  (2)

              A-Na-Hàm – bậc Bất Lai        (3)

       Cùng A-La-Hán (4) – khứ lai không còn).

          Sao là bốn Pháp tôn quýđó ?

          Này chư Hiền ! Vì có lòng tin

              Vào bậc Đạo Sư của mình

       Hết lòng tin Pháp cao minh thiện lành

          Vì có sự tựu thành viên mãn

          Các Giới Luật trong sáng tuyệt vời

              Với những pháp hữu đồng thời

       Những người Cư-sĩ, những người xuất gia

          Thảy đều là được tôi thương mến.

          Chúng tôi tự chánh kiến trải qua

              Bốn pháp được Phật thuyết ra

       Bậc đã thấy, biết, Phật Đà, Thế Tôn,

          Nên chúng tôi tuyên ngôn như thế ! ”

    _______________________________

  *  : Tức làBốn thánh quả Thinh-Văn-Giác :

(1) :Tu-Đà-Hoàn  ( Sotàpatti ) hay Dự Lưu quả hoặc Thất Lai

quả (chỉ còn sinhlại thế gian 7 lần).

(2) : Tư-Đà-Hàm ( Sakadàgàmi ) hay Nhất Lai quả (sinh lại 1 lần) 

(3) : A-Na-Hàm ( Anàgàmi ) hay Bất Lai quả ( sinh lên cung trời

Tịnh Cư (Suddhàvàsa) để tiếp tục tu và nhập Vô Dư Niết Bàn .   

(4) : A-La-Hán ( Araham ) được dịch là Vô Sanh , Vô Học , Ứng

       Cúng , sau khi mạng chung sẽ tấn nhập Vô Dư Niết Bàn .

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –156

 

          Các Tỷ Kheo ! Được kể như vầy

              Có thể có sự tình này :

       Du sĩ ngoại đạo nói ngay một hồi :  

    – “ Chư Hiền-giả ! Chúng tôi cũng có

          Lòng tin đó vào Đạo Sư tôi  

              Tin tưởng Pháp của chúng tôi

       Thành tựu Giới Luật riêng thời chúng tôi

          Những pháp hữu khắp nơi các vị

          Người xuất gia, cư sĩĐạo tôi

              Chúng tôi thương họ vô hồi,

       Như vậy các vị& chúng tôi khác gì ?

          Đặc thù gì ? Có gì sai biệt ?

          Mà các vị nói việc ấy ra ? ”.

 

              Các Tỷ Kheo ! Vẫn ôn hòa

       Trả lời với họ, nêu ra vấn đề :

     – “ Này chư Hiền ! Thuộc về phương diện 

          Cứu cánh làđa diện trên đời

              Hay chỉ là một mà thôi ? ”.

       Nếu họ đứng đắn , trả lời thẳng ngay :

     – “ Chư Hiền này ! Cứu cánh là một

          Không thể thốt đa diện điều này ”.

              Các con lại hỏi như vầy :

 – “ Cứu cánh ấy để cho rày người tham

          Hay cho người không tham, ngay thẳng ? ”.

          Nếu là người đứng đắn, nói ngay :

        – “ Chư Hiền-giả ! Cứu cánh này

       Không dành cho những người đầy tham lam

          Chỉ cho người không tham, vô hại ”. 

 

     – “ Cứu cánh ấy cho người sân & si                    

              Hay cho người không sân & si ?

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –157

 

       Cho người cóÁi & Không vìÁi mong ?

          Người chấp thủ& Người không chấp thủ ?

          Người có trí hay lũ u mê ?

              Cho người thuận ứng & nghịch bề

      Hay không nghịch ứng & không hề thuận thông?

          Người hý luận hay không hý luận ? ”.

 

          Nếu đứng đắn, ưa chuộng điều ngay

              Thì họ trả lời thế này :

 – “ Chư Hiền ! Cứu cánh ởđây chỉ dành

          Cho những người tịnh thanh, sáng tỏ

          Không sân & si ; không cóÁi nào

              Cho người không chấp thủ vào

       Cho người có trí thanh cao tấm lòng

          Không thuận ứng và không nghịch ứng

          Người không thích hý luận, lắm điều.

              Những kẻ trái lại, ngược chiều

       Cứu cánh không phải cho nhiều kẻđây ”.

 

Chư Tỷ Kheo ! Ởđây tuần tự

          Có hai thứ tri-kiến như vầy :

              Hữu-kiến & Phi-hữu-kiến đây

       Sa-môn, Phạm-chí nào hay nhập nhòa

          Chấp trước và thiết thân hữu-kiến

          Cố chấp vào hữu-kiến khư khư

               Vịấy bị chướng ngại từ

       Phi-hữu-kiến đó, thiệt hư còn tùy.

          Còn Sa-môn hay vì Phạm-chí

          Chấp trước chỉ Phi-hữu-kiến này

              Thân thiết, cố chấp kiến đây

       Chướng ngại bởi hữu-kiến ngay tức thì.

Chư Tỷ Kheo ! Các vì Phạm-chí

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –158

 

          Hay Sa-môn các vị, một khi

Đã không như thật tuệ tri

       Tập khởi, đoạn diệt hai chi kiến này

          Vị ngọt đây, sự nguy hiểm đó

          Sự xuất ly của nó khó phân,

              Các vị này thuộc thành phần

       Có tham, cóái, có sân, si đồng,

          Có chấp thủ và không trí chứng

          Có thuận ứng, có nghịch ứng nhiều

Ưa thích hý luận sớm chiều,

       Không thể giải thoát, dứt điều tử sinh

          Sự già, bệnh, phát sinh sầu, khổ

Ưu, bi, não mọi chỗ mọi thì.

 

              Các Tỷ Kheo ! Còn khác đi

       Vị nào như thật tuệ tri cấp kỳ

          Sự tập khởi, tuệ tri đoạn diệt

          Hai loại kiến đã biết trên đây,

              Vị ngọt, sự nguy hiểm đầy

       Xuất ly của chúng biết ngay thế nào

          Những vị nào không tham, không ái

          Không sân hận và lại không si

              Có trí, không chấp thủ gì

       Không thuận & không nghịch ứng chi mọi điều

          Không ưa thích sớm chiều hý luận,

          Những vịấy sớm muộn trải qua

              Sẽ giải thoát khỏi sinh, già

       Dứt sầu, bi, khổ, chết và não, ưu.

          Các Tỷ Khưu ! Đây là Ta nói :

          Những vịấy thoát khỏi khổđau.

 

              Có bốn chấp thủ kể vào

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –159

 

       Thế nào là bốn ?  Trước sau như vầy :

          Dục-thủ và thứ hai Kiến-thủ

          Giới-cấm-thủ& Ngã-luận-thủđây.

              Các Tỷ Kheo ! Hãy nghe này :

       Sa-môn, Phạm-chí thường ngày tự xưng

          Là liễu tri với từng ấy Thủ

          Nhưng không tự hiển thị chánh chân

              Liễu tri về Thủ các phần

       Như về Dục-thủ họ cần liễu tri

          Không hiển thị liễu tri Kiến-thủ&

          Giới-cấm-thủ& Ngã-luận-thủ đồng

              Vì sao vậy ?  Xét cho thông

       Những Hiền-giảấy đã không thuận tùy

          Không như thật tuệ tri ba sự.

          Do vậy, tự Phạm-chí, Sa-môn

              Tuy tự xưng hiểu rất thông

       Liễu tri các Thủ , nhưng không hiểu gì

          Không hiển thị liễu tri chân chánh

          Tất cả Thủ ; chóng vánh thực thi

              Họ hiển thị sự liễu tri

       Dục-thủ& Kiến-thủ – trừđi hai điều :

          Không liễu tri về Giới-cấm-thủ,

          Ngã-luận-thủ cũng chẳng liễu tri.

              Vì sao vậy ? Đó là vì

       Họ không như thật tuệ tri hai điều.

 

          Cũng như vậy, với nhiều suy nghĩ

          Có những vị Phạm-chí, Sa-môn

              Hiển thị liễu tri, tuyên ngôn

       Về Dục & Kiến-thủ và còn liễu tri

          Giới-cấm-thủ, chỉ vì ba sự

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –160

 

         Không hiển thị một thứ đồng thì

              Ngã-luận-thủ không liễu tri

       Họ không như thật tuệ tri một điều.

          Những Sa-môn và nhiều Phạm-chí

          Tuy tự xưng các vị liễu tri

              Về tất cả Thủ chi chi

       Nhưng không hiển thị liễu tri những gì.

          Không hiển thị liễu tri chân chánh

          Tất cả Thủ, chóng vánh thực thi

              Họ hiển thị sự liễu tri

       Về ba Thủ trước, trừđi một điều :

          Ngã-luận-thủ một chiều hiển thị.

          Các Tỷ Kheo ! Du sĩ ngao du

              Pháp & Luật mà họ khư khư

       Nếu họ tịnh tín Đạo Sư của mình

          Thì thật tình không hoàn toàncả

          Nếu họđã tin Pháp của mình

              Cũng không hoàn toàn sự tin,

       Viên mãn Giới Luật của mình thành công

          Thành tựu ấy là không hoàn hảo

          Sự thương mến bạnđạo các hàng

              Thương mến cũng không hoàn toàn

       Vì sao như vậy ? Xét sang kỹ càng

          Một Pháp & Luật giảng bàn không khéo

          Hiển thị cũng không khéo, vụng về

              Không có cao thượng hướng về

       Không hề dẫn đến mọi bề tịnh an

          Không được bậc hoàn toàn giải thoát

          Chánh Đẳng Giác hiển thị rõ ràng.

 

Chư Tỷ Kheo ! Còn nói sang

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –161

 

       Như Lai giác ngộ minh quang Phật Đà

          Chánh Đẳng Giác, Đại A-La-Hán

          Nên tự xưng viên mãn liễu tri

              Tất cả các Thủ đồng thì

       Chân chánh hiển thị liễu tri chúng, vì

          Sự hiển thị liễu tri Dục-thủ

          Kiến-thủ, Giới-cấm-thủ do đâu

              Cùng ngã-luận-thủ hiểu sâu.

       Này Tỷ Kheo Chúng ! Hiểu mau như vầy :

          Trong Pháp này, Luật này chân thật

          Nếu tịnh tín với bậc Đạo Sư

              Tịnh tín ấy được xem như

       Là hoàn toàn cả, chẳng hư vọng gì,

          Tin Pháp, tin ấy thì hoàn hảo

          Các Giới Luật chu đáo tựu thành

              Được xem hoàn toàn tựu thành,

       Có sự thương mến bạn lành tín gia

          Được xem là mến thương hoàn hảo,

          Vì sao vậy ? Sự giáo truyền này

              Pháp & Luật khéo thuyết giảng đây

       Khéo được hiển thị, khiến đầy tịnh an

          Có hướng thượng, do hàng Chánh Giác

Đã hiển thị, đem lạc an ngay.

Chư Tỷ Kheo ! Hãy nghe này :

       Bốn loại chấp thủ như vầy, kể trên

Đã lấy gì làm duyên ? Tập khởi ?

          Lấy gì làm chủng ? với làm nhân ?

              Bốn loại chấp thủ này cần

Ái làm duyên, với Ái làm chủng, nhân.

          Các Tỷ Kheo ! Về phần của Ái

          Gì làm duyên cho Ái như vầy ?

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –162

 

              Lấy gì làm tập khởi đây ?

       Lấy gì làm chủng & nhân ngay tức thì ?

          Chính Thọ ni làm duyên, tập khởi,

          Lấy Thọ làm chủng với làm nhân.

 

Chư Tỷ Kheo ! Nối tiếp dần

       Thọ này lấy Xúc, thành phần làm duyên

          Làm tập khởi, nhân liền và chủng.

          Xúc lấy đúng Sáu Nhập làm duyên

              Làm tập khởi & chủng & nhân liền.

 

       Lại lấy Danh Sắc làm duyên Nhập này

          Làm tập khởi & chủng đây & nhân đó.

 

          Danh Sắc nọ lấy Thức làm duyên

              Làm tập khởi & chủng & nhân liền.

 

       Lấy Hành căn bản làm duyên Thức này

          Làm tập khởi & chủng đây & nhân đấy.

          Hành này lấy Vô Minh làm duyên

              Làm tập khởi & chủng & nhân liền.

 

       Này Tỷ Kheo Chúng ! Hiện tiền Tỷ Kheo

           Với Vô-minh dính đeo – trừ diệt

           Minh sanh khởi. Do biết, hiểu thông

               Vô minh được đoạn trừ xong

       Do Minh sanh khởi nên không chấp trì

          Không chấp thủ những gì ? : Dục-thủ

          Bỏ kiến-thủ, giới-cấm-thủ ngay

              Bỏ ngã-luận-thủ bấy nay

       Nhờ không chấp thủ, vị này lạc an

          Tâm hoàn toàn không còn tháo động

          Nên nhanh chóng chứng đắc Niết Bàn

Trung Bộ  (Tập 1) Tiểu Kinh 11 : SƯ TỬ HỐNG  * MLH –163

 

              Vịấy tuệ tri rõ ràng :

       Phạm hạnh thành tựu, sự Sanh tận rồi

          Việc cần, thời đã làm hoàn tất

          Không trở lui bất trắc tử sanh ”.

 

              Thế Tôn thuyết giảng an lành        

       Chư Tăng tín thọ, thực hành Pháp môn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*   *

 

(  Chấm dứt  Kinh số 11 :  Tiểu Kinh SƯ TỬ HỐNG  – CÙLASÌHANÀDA  Sutta  ) 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7755)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8802)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2833)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4354)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2631)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7885)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12497)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8548)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567