Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

66. Kinh Ví Dụ Con Chim Cáy

19/05/202010:31(Xem: 9448)
66. Kinh Ví Dụ Con Chim Cáy

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com



66. Kinh VÍ DỤ CON CHIM CÁY
( Latukikopama sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
Một thời, đức Thế Tôn Giác Giả
          An trú Ăng-Gút-Tá-Ra-Pa   (1)
           ( Tức Bắc Phương Thủy Ương-Già )
Tại thị trấn A-Pa-Na nơi này.
 
          Buổi sớm mai, Thế Tôn Đại Giác
          Thân đắp y, mang bát an hòa
              Khất thực tại A-Pa-Na  (1)
       Sau khi thọ thực, Phật Đà về qua
          Đến một khu rừng già để nghỉ
Dưới gốc cây ngồi chỉ tịnh ngay.
 
              Ưu-Đa-Di Tôn-giả này
Đắp y mang bát buổi mai, cũng là
          Đi vào A-Pa-Na khất thực
          Sau ngọ thực, Tôn giả đến ngay
              Khu rừng, để trú ban ngày
       Độc cư thiền tịnh vị đây thực hành.
          Sự suy tư bỗng nhanh khởi phát :
 ‘Đấng Đại Giác thật sự chính là
              Mang nhiều lạc pháp cho ta,
       Diệt bất thiện pháp cho ta rõ ràng, 
    ____________________________
 
(1) : Địa phương tên Anuttarapa – Ương-già Bắc Phương Thủy .
       Apana là một thị tứ của Anguttarapa .
(2) : Tôn-giả Udayi – Ưu-Đà-Di .
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH – 408
 
          Thật sự mang cho ta thiện pháp,
        ( Thường giải đáp nghi hoặc chúng ta ).
 
              Sau khi thiền tịnh trải qua  
       Tôn-giả đứng dậy, đi ra khỏi ngàn  (1)
          Đến hương thất tịnh an cũa Phật
          Đảnh lễ Phật, ngồi xuống một bên,
              Trình bày những điều kể trên,
       Rồi Tôn-giả lại thưa thêm như vầy :
 
    – “ Bạch Thế Tôn ! Trước đây tệ nạn
          Chúng con thường ăn sáng, ăn chiều,
              Ban ngày, phi thời ăn nhiều,
       Trong khi Ngài đã dạy điều giới răn :
 
 ‘Các Tỷ Kheo ! Hãy năng từ bỏ
Ăn phi thời, đừng có ăn chiều !’. 
              Do vậy, con thất vọng nhiều    
       Cảm thấy sầu muộn với điều giới răn.
          Suy nghĩ : ‘Những món ăn, tín thí
          Cúng dường loại thượng vị, cứng mềm.
              Cúng dường cả sáng, chiều, đêm,
Nay phải từ bỏ ăn đêm, ăn chiều.
          Do Thế Tôn dạy điều giới đó
          Thật làm khó việc ăn chúng ta ”.
 
              Nhưng với chân chánh Tăng-Già 
       Có lòng ái mộ Phật Đà vô biên,
Có tàm, quý, thì liền từ bỏ
Ăn phi thời, từ bỏ ăn chiều.
 
              Bạch Thế Tôn ! Cũng có điều  
   ____________________________ 
 
( ) :  Ngàn : rừng  ( như : … chem. tre đẵn gỗ trên ngàn … )
 
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH – 409
 
       Một số Phích-Khú ăn chiều, ăn đêm,
          Được cúng dường có thêm vật thực
Bèn nói : ‘Hãy dành thức ăn này
              Đêm cùng nhau ăn đồ này’.
 
       Nhưng ai ái mộ Như Lai Phật Đà      
          Lòng tôn kính thiết tha vốn có,
Luôn tàm, quý ; liền bỏ ăn đêm.     
 
              Thuở trước, khất thực trong đêm    
       Các vị Phích-Khú bị thêm nạn này :
          Đêm tối đen, bước ngay vào vũng
          Nước dơ nhớp, hoặc đụng rào gai,
              Gặp các đạo tặc chẳng ngay
       Đã hành sự trộm cướp hay chưa hành,
          Đi lầm vào chỗ dành bò cái,
Hoặc gặp gái mời mọc bất lương.
 
              Bạch Phật ! Thuở trước con thường  
       Ban đêm khất thực, chẳng lường họa tai.
          Đêm tối đen, một vài phụ nữ
          Đang rửa chén sau cử ăn chiều,
              Bỗng trời chớp nhoáng, bóng xiêu,
       Chị ta hoảng sợ, hét liều lên ngay :
 ‘Kinh khủng thay ! Có con quỷ dữ
Đi theo để trừ khử tôi đây !’.
              Nghe nói vậy, con bảo ngay :
 
 – “ Này chị ! Chớ sợ. Tôi đây cơ mà !
          Là Tỷ Kheo trải qua khất thực ”.
 
          Con lập tức bị chửi tức thì :
 
        – “ Cha Tỷ Kheo hãy chết đi !
       Mẹ Tỷ Kheo hãy chết đi cho rồi !
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH – 410
 
          Này Tỷ Kheo ! Theo tôi nghĩ tới
          Thật tốt hơn đối với ông đây
              Hãy lấy dao bén hằng ngày
Của người đồ tể, cắt ngay bụng mình. 
          Còn hơn vì bụng mình, khất thực
          Trong ban đêm rất mực tối tăm”.
 
              Khi nhớ như vậy, tự tâm
       Con đã nghĩ đến ân thâm Cha Lành.
          Sự suy nghĩ bỗng nhanh khởi phát :
 ‘Đấng Đại Giác thật sự chính là
              Mang nhiều lạc pháp cho ta,
       Diệt bất thiện pháp cho ta rõ ràng, 
Thật sự mang cho ta thiện pháp ”.
 
    – “ Tuy vậy, vẫn phức tạp thị phi
              Ở đây, này Ưu-Đà-Di !
       Có một số kẻ ngu si độn đần
Nghe Ta nói : ‘Phải cần từ bỏ
Ăn phi thời, đừng có ăn chiều’.
              Họ liền phản đối, nói liều :
 
 – “ Sá gì việc nhỏ xíu xiu như vầy
          Sa-môn này cấm đoán đoạn giảm
          Quá nặng nề, kiềm hãm người ta ”.
 
              Họ không từ bỏ, lìa xa
       Những điều cấm giới mà Ta ban hành.
          Họ bất mãn rồi thành chống đối,
          Chống Ta và chống với những ai
Muốn thực hành học giới này.
 
       Này U-Đa-Dí ! Việc đây chẳng lành !
Đối với họ, trở thành trói buộc
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH –411
 
          Thật mạnh mẽ, trói buộc kiên cường,
              Trói buộc vững chắc phi thường,
Nó không mục nát, nó dường gỗ to.
          Ta ví dụ để cho rõ vậy :
          Có con chim cáy mái ốm teo
              Bị tấm lưới bằng dây leo
       Trói chặt lấy nó dính đeo lưới này. 
Có thể bị chết hay bắt nhốt.
 
          Nếu có ai đó thốt như vầy : 
            ‘Tuy con chim cáy mái này
       Bị tấm lưới trói chặt ngay tức thì.
          Bị lâm nguy, có khi mất mạng,
          Nhưng với chim, chẳng đáng lo chi !
              Lưới yếu ớt, chẳng chắc gì,
       Lưới không cứng chắc, lại vì mục hư’.    
 
          U-Đa-Dí ! Nếu như người đó     
          Nói vậy, có chân chánh hay không ? ”.
 
        – “ Thưa không, bạch đức Thế Tôn ! 
       Sự việc như thế tuyệt không thể vầy.
          Chim cáy mái nhỏ gầy ắt hẳn
          Bị tấm lưới chắc chắn phủ vây
              Không thể nào thoát lưới này,
Bảo lưới yếu, mục… như vầy nói ngoa ”.
 
    – “ Cũng như vậy, điểm qua sự kiện
          Một số người ngụy biện, ngu si     
              Nghe Ta nói : ‘Hãy dứt đi !
       Ăn chiều, ăn tối, ăn phi thời này’.
          Liền nói ngay : ‘Sá gì chuyện đó
          Việc tiểu tiết, chuyện nhỏ mọn này.
              Vị Sa-môn (Kiều-Đàm) đây 
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH – 412
 
       Cấm đoán đoạn giảm gắt gay, nặng nề  !’.
Không từ bỏ, hành về cấm giới,
          Họ chống đối Ta và những ai
Muốn thực hành học giới này.
Nhưng với họ, sẽ có đầy sầu lo.
 
          Ưu-Đà-Di ! Cũng do điều đó
          Những người có hiểu biết, nhu hòa
              Một số Nam tử Thiện gia
Phát biểu : ‘Việc nhỏ mọn mà, sá chi !
          Khiến đấng Chánh Biến Tri quan ngại
Dạy là phải từ bỏ, đoạn trừ’.
 
              Thế rồi họ đã đoạn trừ,
Không hề bất mãn, cũng như họ đều
          Không chống Ta & Tỷ Kheo các vị,
Muốn thực hành hoan hỷ giới đây.
              Sau khi từ bỏ như vầy,
       Họ sống lắng dịu, ít bày lăng xăng,
          Tùy thuộc vào tín-nhân bố thí,
Sống với tâm được ví thú rừng.
              Như vậy, với người đã từng
       Tuân theo giới luật, không ngừng thực thi,
          Sự trói buộc ấy thì không chắc,
          Mục nát, rất yếu ớt, đáng chi !
 
              Ví như, này Ưu-Đà-Di !
       Một con voi lớn uy nghi, ngà dài
          Của nhà vua, thuộc loài chiến tượng,
          Được nuôi dưỡng, chiến địa làm nhà.
              Nếu bị trói bởi nịt da
Rất vững chắc. Nhưng voi ta lẫy lừng
          Nó chỉ cần chuyển thân, ra sức
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH –413
 
Là bứt đứt tất cả nịt da.
              Nếu có ai đó nói là :
 ‘Ngự tượng cao lớn, có ngà dài to
          Như cán cày, được so sánh vậy.
          Nếu voi ấy bị trói buộc ngay
              Bằng nịt da rất chắc, dày.
       Chỉ chuyển động mạnh, voi này bứt phăng
          Những trói buộc nó bằng da nịt,
Để tới lui tùy thích đó đây.
              Tuy vậy, với con voi này
       Với sự trói buộc ở đây kiên cường,
          Sự trói buộc vô phương bứt đứt,
          Hay như khúc gỗ thực lớn thay !’.
 
              Ưu-Đà-Di ! Ai nói vầy      
       Có phải xác thực, lời này chánh chân ? ”.
 
    – “ Bạch Phật ! Không chánh chân lời ấy.
          Với sức voi rất lẫy lừng này
              Nó có thể bứt đứt ngay  
       Sự trói buộc đó chẳng tày vào đâu ! ”.    
 
    – “ Cũng vậy, như nói vào duyên sự
          Các Thiện gia nam tử nhu hòa
              Khi nghe lời dạy của Ta
Phát biểu : ‘Việc nhỏ mọn mà, sá chi !
          Khiến đấng Chánh Biến Tri quan ngại
Dạy là phải từ bỏ, đoạn trừ’.
 
              Thế rồi họ đã đoạn trừ,
Không hề bất mãn, cũng như họ đều
          Không chống Ta & Tỷ Kheo các vị,
Muốn thực hành hoan hỷ giới đây.
              Sau khi từ bỏ như vầy,
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH –414
 
       Họ sống lắng dịu, ít bày lăng xăng,
          Tùy thuộc vào tín-nhân bố thí,
Sống với tâm được ví thú rừng.
              Như vậy, với người đã từng
       Tuân theo giới luật, không ngừng thực thi
          Sự trói buộc ấy thì không chắc,
          Mục nát, rất yếu ớt, đáng chi !
 
              Ví như, này Ưu-Đà-Di !
       Người nghèo khổ, không vật gì có qua.
          Vật sở hữu chỉ là chòi lá
          Hư nát, mở cho quạ chui vào,
Chòi không đẹp mắt chút nào,
       Một giường mục nát ; xiết bao cơ cầu !
          Một ít gạo chứa vào chum nhỏ,
Chum không có đẹp mắt tí gì,
              Một bà vợ chẳng đẹp chi !
 
       Người ấy chợt thấy một vì Tỷ Kheo   
          Tay chân đều sạch trong, nho nhã
          Sau khi đã thọ thực ngon lành
              Đang ngồi dưới bóng cây xanh 
       Tăng thượng tâm, vị ấy nhanh hướng vào.
Người ấy nghĩ : ‘Thanh cao, hoan hỷ !
          An lạc thay ! Vị Tỷ Kheo này !
Với Sa-môn-hạnh đủ đầy.
       Tại sao ta chẳng từ rày xuất gia ?
          Cạo râu tóc, ca-sa hãy đắp,
Lìa gia đình, chỗ thấp hèn ni’.
 
              Nhưng gã không thể rời đi
       Cái chòi rách nát, giường thì mục hư,
Không thể từ bỏ bà vợ xấu… 
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH – 415
 
          Để tìm đạo, thực hiện xuất gia,
              Cạo râu tóc, đắp ca-sa,
       Không gia đình, sống lánh xa ái hà,
          Gã không thể vượt qua trói buộc,
          Sự trói buộc đeo dính nghèo hèn,
Cả đời không thoát vận đen.
       Nếu có ai đó nói lên như vầy :
 ‘Dù người này đã bị trói buộc
          Sự trói buộc ấy không vững bền,
Nó yếu ớt, mục nát liền’.
       Này U-Đa-Dí ! Ai lên tiếng vầy
          Cách nói này có phải chân chánh ? ”.
 
    – “ Bạch Phật ! Không chân chánh lời này.
              Người kia bị trói buộc hoài
       Vào những ràng buộc ở đây, chẳng rời
          Cái chòi thời mục hư, rách nát,
          Còn cái giường hư nát, cũ xì
              Cùng bà vợ xấu quá đi !     
       Tài sản thời chẳng có gì đáng đâu !
          Nhưng gã không thể nào từ bỏ
          Để xuất gia và thọ giới lành,
Sống không gia đình, tịnh thanh.
       Đối với người ấy, thấy nhanh như vầy :
          Trói buộc này kiên cường, vững chắc,
Khiến gã bị dính mắc, níu trì.
 
        – “  Cũng vậy, này Ưu-Đà-Di !
       Có một số kẻ ngu si độn đần
Khi nghe Ta nói rằng : ‘Từ bỏ
Ăn phi thời, đừng có ăn chiều.
              Họ liền phản đối, nói liều :
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH –416
 
– “ Sá gì việc nhỏ xíu xiu như vầy
          Sa-môn này cấm đoán đoạn giảm
          Quá nặng nề, kiềm hãm người ta’.
              Họ không từ bỏ, lìa xa
       Những điều cấm giới mà Ta ban hành.
          Họ bất mãn rồi thành chống đối,
          Chống Ta và chống với những ai
Muốn thực hành học giới này.
 
       Này U-Đa-Dí ! Việc đây chẳng lành !
Đối với họ, trở thành trói buộc
          Thật mạnh mẽ, trói buộc kiên cường,
              Trói buộc vững chắc phi thường,
Nó không mục nát, nó dường gỗ to.
 
          Ưu-Đà-Di ! Ta cho ví dụ :
          Một gia chủ hay con người này
              Giàu có, tài sản dẫy đầy
       Vô số vàng bạc, gia tài khuếch trương,
          Nhiều đất đai, ruộng nương vô số,
          Nhiều thê thiếp, vô số nữ tỳ,
              Đầy tớ nam chẳng thiếu gì !
 
       Người ấy chợt thấy một vì Tỷ Kheo   
          Tay chân đều sạch trong, nho nhã
          Sau khi đã thọ thực ngon lành
              Đang ngồi dưới bóng cây xanh 
       Tăng thượng tâm, vị ấy nhanh hướng vào.
Người ấy nghĩ : ‘Thanh cao, hoan hỷ !
          An lạc thay ! Vị Tỷ Kheo này
              Với Sa-môn-hạnh đủ đầy .
       Tại sao ta chẳng từ rày xuất gia ?
          Cạo râu tóc, ca-sa hãy đắp,
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH –  417
 
Lìa gia đình để gấp ra đi’.
 
              Sau đó vị ấy từ ly
       Xuất gia, từ bỏ những gì dính đeo,
          Bỏ tài sản vừa nêu to tát,
          Từ bỏ các thê thiếp, gia nhân,
Gia sản kết sù không cần.
Nếu có ai đó nói rằng : ‘Chuyện đây,
          Gia chủ này hay con ông ấy
          Tài sản giàu như vậy hằng sa,
              Có thể từ bỏ, xuất gia
       Cạo bỏ râu tóc, ca-sa đắp liền.
          Nhưng với riêng người này, sự kiện
          Bị trói buộc vĩnh viễn kiên cường,
              Vững chắc, vùng vẫy vô phương,
       Không hề mục nát, nó dường gỗ to’.
          Ưu-Đà-Di ! Nếu do câu nói,
          Có phải nói chân chánh hay không ? ”.
 
        – “ Thưa không, bạch đức Thế Tôn !   
       Ai nói như vậy, thật không đúng rồi !
          Đối với người quyết tâm từ bỏ
          Tài sản lớn, cả vợ con mình,
              Sự trói buộc ấy rung rinh
       Nó không vững chắc, tự mình tan ngay ”.
 
     – “ Ưu-Đà-Di ! Ở đây cũng thế
          Người có thể hiểu biết, nhu hòa        
              Khi nghe lời dạy của Ta
Phát biểu : ‘Việc nhỏ mọn mà, sá chi !
          Khiến đấng Chánh Biến Tri quan ngại
Dạy là phải từ bỏ, đoạn trừ’.
 
              Thế rồi họ đã đoạn trừ,
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH – 418
 
Không hề bất mãn, cũng như họ đều
          Không chống Ta & Tỷ Kheo các vị,
Muốn thực hành hoan hỷ giới đây.
              Sau khi từ bỏ như vầy,
       Họ sống lắng dịu, ít bày lăng xăng,
          Tùy thuộc vào tín-nhân bố thí,
          Sống với tâm được ví thú rừng.
              Như vậy, với người đã từng
       Tuân theo giới luật, không ngừng thực thi,
          Sự trói buộc ấy thì không chắc,
          Mục nát, rất yếu ớt, đáng chi !
 
              Trên đời, này Ưu-Đà-Di !
Hạng người có bốn. Cái gì bốn đây ?
      *  Có người sống hướng ngay đến sự
Diệt sanh y, trừ khử sanh y.
              Nhưng khi diệt, bỏ sanh y
       Khởi lên tư niệm, tư duy các điều
Liên hệ nhiều sanh y hiện tại.
          Vị này lại chấp nhận chúng ngay
              Không trừ, bỏ những điều này,
       Không chấm dứt, cũng không rày diệt đi.
 
          Ưu-Đà-Di ! Người này bị trói,
          Không phải không bị trói buộc vầy.
              Vì sao vậy ? Vì ở đây
       Sai biệt căn tánh, người này sẵn mang,
Đã được Ta hoàn toàn biết rõ.
 
     *  Nhưng cũng có người sống hướng ngay
             Sự đoạn trừ sanh y này,
       Nhưng khởi tư niệm, khởi rày tư duy
          Liên hệ đến sanh y hiện đó,
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH – 419
 
          Nhưng không có chấp nhận điều này,
              Chấm dứt, tiêu diệt chúng ngay .
Ta nói rành mạch : ‘Người này bên trong
          Bị trói, không phải không trói buộc.
          Sai biệt thuộc căn tánh người này
              Được Ta biết rõ như vầy’.
 
   *  Này U-Đa-Dí ! Ở đây có người
          Hướng đến diệt, tức thời từ bỏ
Về sanh y. Nhưng họ đồng thì
              Khởi lên tư niệm, tư duy
       Điên đảo, tùy lúc hoặc tùy thời thôi.
          Niệm khởi lên lơi lơi tiệm tiến,
          Vị này đoạn trừ niệm ấy nhanh,
Chấm dứt, diệt niệm khởi sanh.
       Này U-Đa-Dí ! Rõ rành ví như :
          Một người nhỏ từ từ vài giọt
          Nước lạnh, rớt vào miếng sắt nung
              Nóng đỏ như đang cháy bùng,
       Các giọt nước ấy tiêu tùng thật mau.
 
          Cũng vậy, người hướng vào từ bỏ  
          Và chịu khó đoạn trừ sanh y,
              Trong khi muốn diệt sanh y
       Khởi lên điên đảo những gì nói trên.
          Ta nói liền : ‘Người này bị trói,
          Không phải không bị trói buộc’ vầy.  
              Vì sao vậy ? Vì ở đây
       Sai biệt căn tánh, người này sẵn mang,
Đã được Ta hoàn toàn biết rõ.
 
   *  Nhưng cũng có người nghĩ như sau :
 ‘Sanh y – nguồn gốc khổ đau’.
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH –420
 
       Sau khi biết vậy, đã mau trở thành
Vô-sanh-y, rồi nhanh giải thoát 
Sự đoạn diệt với các sanh y.   
              Cho nên, này Ưu-Đà-Di !
Ta nói : ‘Người ấy không chi buộc ràng,
          Không phải đang bị trói buộc lại’.
          Vì sao vậy ? Vì sai biệt rày
              Về căn tánh trong người này
Đã được Ta biết rõ ngay tức thì.
 
          Ưu-Đà-Di ! Năm dục trưởng dưỡng.
          Dục trưởng dưỡng thế nào là năm ?
              Sắc do mắt nhận thức thầm,
       Khả ái, khả hỷ, trong tâm thích liền,
          Vừa ý riêng, kích thích lòng dục.
 
Tiếng do tai nhận thức du dương,
              Mũi lại nhận thức mùi hương,
       Vị do lưỡi nhận thức, thường thích yêu,
          Xúc do thân thường chiêu cảm xúc,
          Kích thích khiến lòng dục khởi ra.
              Ưu-Đà-Di ! Đó chính là
       Năm dục trưởng dưỡng trải qua mọi thì.
 
          Phàm có lạc & hỷ gì phát khởi 
          Do duyên với dục trưởng dưỡng này,
              Được gọi là ‘dục-lạc’ đây,
       Phàm-phu & ô-uế-lạc, đầy xấu xa,
          Phi Thánh-lạc, chớ mà tu tập !
Chớ phổ cập, chớ để mạnh đầy,
              Lạc ấy đáng sợ hãi thay !
       Này U-Đa-Dí ! Tâm rày duyên theo
          Ly ác pháp, Tỷ Kheo ly dục,  
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH – 421
 
          Chứng và trú vào mục Nhất Thiền
              Trạng thái hỷ lạc, an nhiên
       Sinh do ly dục, có riêng Tứ, Tầm.
 
          Diệt tứ, tầm ; Nhị Thiền chứng, trú
          Trạng thái đủ hỷ lạc, định sanh,
Nội tĩnh nhất tâm, an lành.        
]
       Ly hỷ trú xả, thực hành tiếp theo
          Vị Tỷ Kheo chánh niệm tỉnh giác,
          Thân cảm sự thọ lạc trải qua
              Mà các bậc Thánh gọi là
      ‘Xả niệm lạc trú’, chứng qua Tam Thiền.
 
          Vị ấy liền xả lạc, xả khổ
          Diệt hỷ, ưu, cảm thọ trước đây
              Chứng và trú Tứ Thiền ngay
       Xả niệm thanh tịnh, tâm đầy an nhiên,
Không khổ, lạc. Gọi liền đầy đủ :
          Yểm-ly-lạc, độc-trú-lạc đây,
              Tịch-tịnh & chánh-giác-lạc này, 
       Cần phải thực hiện, cần ngay tu trì,
          Cần phát huy, làm cho sung mãn,
Lạc không đáng sợ hãi, lo gì.
 
              Ở đây, này Ưu-Đà-Di !
       Tỷ Kheo chứng, trú phạm vi Nhất Thiền,
Ta nói rằng chưa yên, dao động.
          Cái gì khiến dao động như vầy ?
              Do ‘tầm, tứ’ chưa diệt ngay,
Dao động vì vẫn còn đây Tứ, Tầm. 
 
          Khi Tỷ Kheo hành thâm, chứng, trú    
Đệ Nhị Thiền đầy đủ. Tuy nhiên  
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH – 422
 
              Tình trạng dao động liên miên :
       Chính do ‘hỷ lạc’ chưa liền diệt đi.
 
          Ưu-Đà-Di ! Tỷ Kheo chứng, trú
          Tam Thiền đủ, dao động còn đây.
              Chính do ‘xả lạc’ điều này
       Tình trạng dao động do vầy kéo theo.
 
          Vị Tỷ Kheo xả lạc, xả khổ
          Chứng và trú vào chỗ Tứ Thiền
              Thiền này chính thật vui yên
       Không có dao động, an nhiên tu trì.
 
          Ưu-Đà-Di ! Chứng Thiền thứ Nhất 
Ta nói : ‘Thật chưa hoàn toàn đâu !
Hãy từ bỏ, vượt qua mau’.
       Vị ấy cần vượt qua mau cái gì ?
 
          Ưu-Đà-Di ! Nhị Thiền chứng, trú
         ‘Cũng chưa đủ, chưa hoàn toàn đâu !      
              Hãy từ bỏ, hãy vượt mau’.
 
       Tam Thiền chứng, trú – chưa sao hoàn toàn.
          Đệ Tứ Thiền chứng, an trú đấy,
          Nhưng như vậy chưa hoàn toàn đâu !
Hãy từ bỏ, vượt qua mau.
       Vị ấy cần vượt qua mau cái gì ?
 
          Ưu-Đà-Di ! Vượt mọi Sắc-tưởng     
          Chướng-ngại-tưởng mọi thứ diệt mau,
Không tác ý dị tưởng nào,
       Tỷ Kheo này nghĩ nhằm vào Hư không
          Là vô biên, chứng xong, an trú
          Vào Không Vô Biên Xứ an hòa
Đây là điều phải vượt qua.     
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH – 423
 
       Ta nói : ‘ Thiền ấy chưa là mục tiêu,
          Chưa hoàn toàn, kiếm điều dứt nó.
 
          Tỷ Kheo đó vượt mọi Hư Không    
Vô Biên Xứ, rồi nhủ lòng :     
      ‘Thức vô biên’, chứng, trú trong nơi này.
          Thức Vô Biên Xứ đây cần vượt,
          Nên Thiền này chưa được hoàn toàn.
 
              Tỷ Kheo tiếp tục vượt sang   
       Nghĩ : ‘Không có vật gì’ ràng buộc đâu,
          Chứng, trú vào Vô Sở Hữu Xứ.
          Đây là điều phải tự vượt qua,
             ‘Chưa hoàn toàn’, Ta nói ra
      ‘Hãy từ bỏ’, ‘Hãy vượt qua’ nơi này.   
Rồi vượt ngay Vô-sở-hữu Xứ.
          Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ đây
Tỷ Kheo chứng và trú ngay.
      Nhưng vị ấy phải điều này vượt qua.
         ‘Chưa hoàn toàn’ ! Lời Ta nói đó
         ‘Hãy từ bỏ’, ‘Hãy vượt qua đi’.
              Ở đây, này Ưu-Đà-Di !
       Vị ấy cần vượt qua đi cái gì ?
 
          Tỷ Kheo phải tức thì vượt khỏi 
          Mọi Tưởng-xứ Phi-tưởng-phi-phi,
              Chứng, trú Diệt Thọ Tưởng ni
       Đây là điều phải cấp kỳ vượt ngay.
 
          Ưu-Đà-Di ! Định này đích thị             
          Ta nói kỹ sự diệt tức thì
Tưởng-xứ Phi-tưởng-phi-phi.
       Này U-Đa-Dí ! Ông thì thấy chăng ?
          Kiết sử gì nhỏ hay lớn thiệt,    
Trung Bộ (T. 2)  Kinh 66 : VÍ DỤ CON CHIM CÁY *MLH – 424
 
          Ta chưa nói sự diệt trừ đi ,
              Hiểu thế nào, Ưu-Đà-Di ?”.
 
 – “ Thưa không, bạch Chánh Biến Tri Phật Đà ! ”.
 
          Nghe Thế Tôn từ hòa thuyết giảng
          Pháp viên mãn, cao thượng, diệu vi,
              Vị Tôn-giả U-Đa-Di
Hoan hỷ tín thọ, khắc ghi lời Ngài ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
 
 
 
*  
*   *
 
 
 
 
 
(  Chấm dứt  Kinh số 66 :  VÍ  DỤ CON CHIM CÁY
                   –   LATUKIKOPAMA   Sutta   ) 
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7753)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8793)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2831)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4352)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2630)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7884)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12494)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8544)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567