Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

88. Kinh Bàhitika

19/05/202010:53(Xem: 6706)
88. Kinh Bàhitika

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập III
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


88. Kinh BÀHITIKA 

( Bàhitika sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ

          Trú Xá Vệ, Chê-Tá-Va-Na

            ( Tinh Xá Kỳ Viên cũng là )

       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka cúng dường

        ( Người gọi thường là Cấp-Cô-Độc ).

 

          Vị hữu học Thánh giả (1) A-Nan    

              Buổi sáng, đắp y nghiêm trang

       Mang bát tề chỉnh như hàng Săng-Ga  (2)   

          Đi vào Sa-Vát-Thi khất thực,

          Sau bữa ăn, Đại Đức dự trù

              Về Mi-Ga-Rá-Ma-Tu  (3)

       Púp-Pa-Ra-Má (3) thanh tu Giảng đường

          Hay Đông Phương (Đông Viên) Lộc Mẫu

        ( Vi-Sa-Kha (3) thuần đạo cúng dường ) 

              Để nghỉ trưa như lệ thường.

       Lúc bấy giờ, vị Quốc Vương trị vì

          Kô-Sa-La – Pa-Sê-Na-Đí

          Từ thành Sa-Vát-Thí đi ra

              Cưỡi trên con voi tên là 

       Ê-Ka-Pun-Đá-Ri-Kà  oai phong     ( Ekapundarika )  

          Từ hừng đông xuất thành để trẩy.

     ___________________________

 

(1) :  Trong bốn thánh quả Thinh-Văn-Giác , 3 quả vị Tu-Đà-Hoàn 

    (Sotàpatti ) , Tư-Đà-Hàm (Sakadàgàmi ), A-Na-Hàm (Anàgàmi )

    thuộchàng Thánh giả Hữu Học. Chỉ bậc A-La-Hán là Vô Học.

(2) : Sangha  được phiên âm là Tăng-Già tức Hòa Hợp Chúng.

(3) : Pubbaràma Migaramatu – Đông Phương hay Đông-Viên Lộc

     Mẫu Giảng Đường, do Nữ Đại Thí Chủ Visakha dâng cúng.

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 88 :  BÀHITIKA             *  MLH  –  234

 

          Bỗng Vua thấy ngài A-Nan-Đa

              Liền hướng Si-Ri-Vát-Tha        ( Sirivaddha )

       Đại thần thân cận, hỏi qua tức thì :

 

    – “ Này Si-Ri-Vát-Tha ! Có phải

          Tôn-giả ấy là A-Nan-Đa ? ”.

 

        – “ Tâu ! Đúng ngài A-Nan-Đa ”.  

 

       Quốc vương nước Kô-Sa-La bấy giờ

          Gọi người khác đang chờ nghe lệnh :

 

    – “ Này người kia ! Hãy đến gặp ngay

              Tôn giả A-Nan-Đa này,

       Hãy nhân danh trẫm tại đây cúi đầu

          Đảnh lễ sâu dưới chân Tôn-giả

 

          Thưa rằng : ‘Bạch Tôn-giả A-Nan ! 

              Nếu không bận việc gấp làm

       Mong ngài hãy đợi bên đàng ít lâu ”.

 

    – “ Thưa vâng, tâu Đại Vương ! Tuân mệnh ”.

 

          Người ấy đến gặp ngài A-Nan

              Lời vua dặn nói rõ ràng.

       Tôn-giả im lặng, ý đang nhận lời.
          Ngài đến nơi bờ sông để nghỉ

        ( A-Chi-Ra-Va-Tí  sông này )          ( Aciravati )

              Ngồi xuống dưới một gốc cây.

* * *

       Vua Ba-Tư-Nặc bảo nài voi mau

          Cho voi đến nơi nào đi được,

          Vua xuống voi, cất bước bộ hành

              Hướng đến Tôn-giả A-Nan,

       Đến nơi, đảnh lễ chí thành, tâm chuyên

          Rồi Vua đứng một bên vị ấy :

    – “ Thưa Tôn giả ! Xin hãy ngồi lên

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 88 :  BÀHITIKA             *  MLH  –  235

 

              Thảm ngựa đã trải trên nền ”.

 

 – “ Đại Vương ! Tôi đã ngồi trên chỗ mình,

          Xin an bình ngồi vào ngự tọa ”.

 

          Vua nước Kô-Sa-Lá ngồi an

              Rồi thưa với ngài A-Nan :

 

 – “ Thưa Tôn giả ! Bậc hoàn toàn tịnh thanh

          Là Thế Tôn – Thân hành mọi thứ

          Đều gìn giữ để không thể ai

              Sa-môn, Bàn-môn… tìm hoài

       Cũng không thấy lỗi của Ngài, quở chê ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Không hề khuất tất,

          Các thân hành của bậc Thế Tôn

              Không thể Sa-môn, Bàn-môn

       Bậc trí quở trách, dù trong điều gì ”. 

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Trong khi nói, nghĩ

          Có phải Vô Thượng Sĩ tịnh thanh

              Không làm khẩu hành, ý hành

       Khiến cho các bậc thiện lành Sa-môn,

          Hay Bàn-môn có trí quở trách ? ”.

 

 – “ Thưa ! Thế Tôn trong sạch hoàn toàn 

          Khẩu hành, ý hành minh quang

       Không ai có thể cáo gian về Ngài ”.

 

    – “ Vi diệu thay ! Kính thưa Tôn-giả !

          Thưa Tôn-giả ! Thật hy hữu thay !

              Điều trẫm không thể hỏi ngay

       Một cách đầy đủ thì ngài A-Nan

          Đã nói lên hoàn toàn đủ ý

          Trong câu đáp chí lý vừa qua.

              Tôn-giả ! Người ngu si, mà

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 88 :  BÀHITIKA             *  MLH  –  236

 

       Thiếu kinh nghiệm hủy báng và tán dương

          Đến người khác, nhưng thường không thể

          Chứng nghiệm, suy xét để hiểu mau,

              Trẫm đây không y cứ vào

       Xem như là lõi cây nào đó thôi.

 

          Nhưng đồng thời, người trí tán thán

          Hay hủy báng người khác điều gì

              Có chứng nghiệm và xét suy

       Thì trẫm y cứ tức thì vào đây

          Xem như là lõi cây như vậy.

          Nhưng Tôn-giả nhận thấy ra sao

              Thân hành, khẩu & ý hành nào

       Các vị trí giả thuộc vào Sa-môn

          Hay Bàn-môn quở la, trách cứ ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Bất cứ thân hành

              Khẩu hành và cả ý hành

       Là điều bất thiện mà hành động ra

          Thì người trí quở la, trách khiển ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Bất thiện thế nào

              Về thân & khẩu & ý hành vào ? ”.

– “ Đại Vương ! Ở các việc nào xảy ra

          Mà có tội, thì là bất thiện ”.

 

    – “ Sao là chuyện có tội  định danh ? ”.

 

        – “ Điều gì có hại – thực hành

       Gọi là có tội khẩu hành & ý & thân ”.

 

     – “ Sao là nhân các hành có hại ? ”.

 

     – “ Bất cứ loại thân & khẩu & ý hành 

               Có khổ báo, hại đến nhanh ”.

 

 – “ Tôn-giả ! Khổ báo các hành là sao ? ”.

 

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 88 :  BÀHITIKA             *  MLH  –  237

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Phàm vào thực tiễn

          Các hành khiến tự hại, hại người

              Đưa đến hại cả hai, thời

       Bất-thiện-pháp khởi từ nơi thân hành

          Hoặc khẩu hành, ý hành ; phải hiểu

          Các thiện pháp giảm thiểu rất nhiều.

              Các hành như vậy là điều

       Khiến các bậc trí, phần nhiều Sa-môn

          Hay Bàn-môn quở la, trách mãi ”. 

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Có phải Phật Đà  

              Tán thán sự đoạn trừ qua

       Tất cả bất thiện pháp đà khởi ra ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Phật Đà là bậc

          Đã diệt bất thiện pháp cả rồi,

              Thành tựu thiện pháp mà thôi ”.

 

 – “ Nhưng thưa Tôn-giả ! Vậy thời ra sao

          Các hành nào không bị Phạm-chí &

          Sa-môn trí quở trách sẵn dành ? ”.

 

         – “ Bất cứ các thiện thân hành

       Thiện khẩu hành với ý hành thiện chân ”.

 

    – “ Hành nào thiện về thân & khẩu & ý ? ”.

 

    – “ Thân & khẩu & ý hành chẳng tội chi ”.

 

        – “ Thế nào không có tội gì

       Về thân & khẩu & ý-hành khi thực hành ? ”.

 

    – “ Khi các hành nào không có hại ”.

 

    – “ Sao các hành không hại biết ra ? ”.

 

        – “ Đại Vương ! Các hành nào mà

       Có lạc báo, không hại qua điều gì ”.

    – “ Các hành chi có được lạc báo ? ”.

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 88 :  BÀHITIKA             *  MLH  –  238

 

   – “ Thưa Đại Vương ! Lạc báo có nơi

              Không làm tự hại, hại người,

       Không đưa đến hại cả người lẫn ta

          Từ các hành xảy ra như vậy

          Bất thiện pháp sụt mãi, giảm tiêu,

              Thiện pháp càng tăng trưởng nhiều.

       Các hành như vậy là điều tốt hơn,

          Không bị các Sa-môn, Phạm-chí

          Bậc có trí quở trách, rầy la ”.

 

        – “ Tôn-giả ! Có phải Phật Đà

       Tán thán thiện pháp trải qua tựu thành ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Tịnh thanh cùng khắp

          Các thiện pháp Phật đã tựu thành,

              Các bất thiện pháp diệt nhanh ”.

 

 – “ Thưa Tôn-giả ! Thật quang minh điều này !

          Vi diệu thay ! Thật là khéo nói

          Những điều trẫm muốn hỏi, nêu ra

              Thì Tôn-giả A-Nan-Đa

       Khéo làm trẫm thỏa mãn và hỷ hoan   

          Do hoan hỷ, lạc an, thỏa mãn

          Với những lời xác đáng của ngài,

              Trẫm sẵn sàng tặng cho ngài

       Voi báu, ngựa báu & tặng ngay một làng

          Như ân tứ của hoàng gia vậy,

          Nhưng điều ấy trẫm được biết rằng :

             ‘Việc này Tôn-giả A-Nan

       Không được phép nhận, vì hàng xuất gia’.

 

          Tôn-giả A-Nan-Đa ! Hiện tại   

          Trẫm có cuộn vải ngoại hóa đây

              Do A-Xà-Thế vua này

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 88 :  BÀHITIKA             *  MLH  –  239

 

       Từ Ma-Ga-Thá tặng rày trẫm đây.

          Dài mười sáu khuỷu tay, rộng tới

          Tám khuỷu tay, gắn với cán dù,

              Mong Tôn-giả vì lòng Từ

       Nạp thọ lễ vật do từ trẫm dâng ”.

 

     – “ Thưa Đại Vương ! Bần tăng đã có

          Đủ ba y, không thọ y thừa ”.

 

        – “ Thưa Tôn-giả ! Sau cơn mưa

       Từ hướng trên núi chảy đùa xuống xuôi

          Ngài và trẫm đồng thời thấy cả

          A-Chi-Rá-Va-Tí sông đây

              Chảy mạnh, hai bờ tràn đầy

       Cũng vậy, dùng tấm vải này may y,

          Hãy tặng lại tam y đã cũ

          Cho Tăng-lữ Phạm hạnh cần y.

              Như vậy sự bố thí ni

       Của trẫm, trôi chảy tức thì, ví như

          Nước tràn bờ do từ nguồn dẫn 

          Mong ngài nhận vải ngoại hóa này ”.

 

              Tôn-giả A-Nan nghe vầy

       Nên nhận tấm vải vua đây cúng dường.

          Rồi Quốc vương Pa-Sê-Na-Đí

          Thưa với vị Tôn-giả từ hòa :

 

        – “ Thưa Tôn-giả A-Nan-Đa !

       Nay trẫm xin kiếu vì đa đoan nhiều,

          Nhiều trách nhiệm tại triều chờ đấy,

          Những công vụ cần phải làm liền ”.

 

        – “ Đại Vương ! Ngài hãy tự nhiên

       Làm những gì nghĩ hợp duyên, hợp thời ”.

 

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 88 :  BÀHITIKA             *  MLH  –  240

 

          Từ chỗ ngồi, vua liền đứng dậy

          Vui, tín thọ lời ấy của ngài

              Thân bên phải hướng về ngài

       Rồi rời nơi ấy đi ngay, bấy giờ.

 

          Sau khi vua nước Kô-Sa-Lá

          Đã từ giả ngài A-Nan-Đa,

              Tôn-giả liền đến Phật Đà

       Đến nơi đảnh lễ, an hòa ngồi bên,

          Đoạn Tôn-giả thưa lên với Phật

          Tường thuật tất việc đàm thoại ni

              Với vua Pa-Sê-Na-Đi

       Rồi dâng tấm vải do vì Quốc vương

          Đã dâng ngài, cúng dường Đại Giác.

 

          Thế Tôn nói với các Tỷ Kheo : 

 

        – “ Hãy nghe, này các Tỷ Kheo !

       Thật là hạnh phúc duyên theo của vì

          Vua Pa-Sê-Na-Đi thực hiện

          Được yết kiến Tôn-giả A-Nan     

              Nghe pháp và được cúng dàng

       Thật là tốt đẹp vô vàn cho vua ”.

 

          Nghe Phật vừa giảng giải như thế

          Việc liên hệ Tôn-giả A-Nan,

              Chúng Tỷ Kheo trong đạo tràng

       Hoan hỷ tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*  *  *

 

(  Chấm dứt  Kinh  số 88  :  BÀHITIKA   –

BÀHITIKA   Sutta  )






***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/10/2010(Xem: 2606)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7774)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2839)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12373)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2719)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8441)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
01/10/2010(Xem: 9886)
Có, không chỉ một mà thôi, Tử, sinh đợt sóng chuyển nhồi tạo ra. Trăng nay, trăng cũng đêm qua, Hoa cười năm mới cũng hoa năm rồi. Ba sinh, đuốc trước gió mồi, Tuần hoàn chín cõi, kiến ngồi cối xay. Tới nơi cứu cánh sao đây ? Siêu nhiên tuệ giác, vẹn đầy “Sa ha” (Thích Tâm Châu dịch )
01/10/2010(Xem: 4227)
Là con người, ai cũng có đủ tính tốt và xấu, nên thực tế rất khó nhận định về tính cách của chính mình, của một người khác, huống chi là nói về tính cách của cả một dân tộc. Tuy vấn đề phức tạp và đôi khi mâu thuẫn, nhưng tôi cũng xin cố gắng đưa ra một số nét tiêu biểu của người Nhật.
28/09/2010(Xem: 5500)
Bao gồm nhiều ngạn ngữ dân gian phản ánh đời sống tâm lý của người dân TQ trong xã hội xưa, “ Tăng quảng hiền văn” là sự thể hiện tư tưởng của Nho Giáo, Đạo Giáo, Lão Giáo, mang tính triết lý cao. 1 Tích thì hiền văn, hối nhữ truân truân, tập vận tăng quảng, đa kiến đa văn. Lời hay thuở trước, răn dạy chúng ta, theo vần cóp nhặt, hiểu biết rộng ra. 2 Quan kim nghi giám cổ, vô cổ bất thành kim. Xem nay nên xét xa xưa, ngày xưa chẳng có thì giờ có đâu. 3 Tri kỷ tri bỉ , tương tâm tỷ tâm. Biết mình phải biết người ta, đem lòng mình để suy ra lòng người. 4 Tửu phùng tri kỷ ẩm, thi hướng hội nhân ngâm. Gặp người tri kỷ ta nâng cốc, thơ chỉ bình ngâm mới bạn hiền. 5 Tương thức mãn thiên hạ, tri tâm năng kỷ nhân. Đầy trong thiên hạ người quen biết, tri kỷ cùng ta được mấy người. 6 Tương phùng hảo tự sơ tương thức, đáo lão chung vô oán hận tâm. Gặp lại vui như ngày mới biết, chẳng chút ăn năn trọn tới già.
27/09/2010(Xem: 3090)
Có người không hiểu Phật, than Phật giáo tiêu cực, nói toàn chuyện không vui. Từ đó Tăng ni chỉ được nhớ tới trong những ngày buồn như đám tang, cúng thất, cầu an cho người sắp đi. Rồi thì người ta còn đi xa hơn, xuống thấp hơn một tí, là khi nói đến Tăng ni là họ tưởng ngay đến những người mất sạch, một cọng tóc cũng không có. Thậm chí họ cho mình cái quyền châm chọc khiếm nhã khi nhìn thấy Tăng ni đâu đó. Một chuyện mà có uống mật gấu họ cũng không dám làm đối với những người thế tục cạo trọc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567