Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

131. Kinh Nhất Dạ Hiền Giả

19/05/202011:33(Xem: 7347)
131. Kinh Nhất Dạ Hiền Giả

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


131. Kinh NHẤT DẠ HIỀN GIẢ

( Bhaddekaratta  Sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ  – trú qua

              Tinh Xá Chê-Tá-Va-Na

       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka cúng dường.

          Tại đây, đấng Pháp Vương cho gọi

          Các Tỷ Kheo, rồi nói pháp ra :

 

        – “ Các Tỷ Kheo ! Ta giảng qua 

       Kinh ‘Phách-Đê-Ká-Rát-Tà’ quang minh     

          Cũng là Kinh ‘Nhất Dạ Hiền Giả’

          Tổng thuyết cả Biệt thuyết rõ ràng.

              Hãy nghe, suy nghiệm kỹ càng,

       Ta sẽ thuyết giảng minh quang Pháp này”.

 

    – “ Thưa vâng, bạch Như Lai Điều Ngự ”.

 

          Rồi tuần tự, Phật giảng tức thì : 

 

   – “ Quá khứ không truy tìm gì

        Tương lai chẳng ước vọng chi, xa vời !
        Quá khứ đã đoạn tận rồi

        Tương lai chưa đến  –  Chỉ thời hiện nay

        Tuệ quán ấy chính là đây

        Không động, không chuyển. Biết vầy, nên tu !

        Nay làm nhiệt tâm, cần cù

        Ai biết mai chết, giã từ nhân sinh ?

        Không ai có thể điều đình         

        Với quân Thần Chết thì mình bó tay !

        Hiện tại, nhiệt tâm trú vầy

        Không hề mệt mỏi cả ngày lẫn đêm.

        Nhất Dạ Hiền Giả xướng tên

        An tịnh, trầm lặng, đứng trên mọi người ”.

 

          Các Tỷ Kheo ! Vậy thời tuần tự

          Sự truy tìm quá khứ là sao ?

              Vị ấy suy nghĩ như sau :

      ‘Như vậy là Sắc thuộc vào của tôi

          Trong quá khứ’, để rồi tìm lấy

          Sự hân hoan trong ấy tức thời.

             ‘Như vậy là thọ của tôi

       Trong quá khứ’, để rồi tính toan

          Truy tìm sự hân hoan trong ấy.

         ‘Ồ ! Như vậy là tưởng của tôi’,

             ‘Như vậy là hành của tôi’,

      ‘Như vậy là thức của tôi’ rõ ràng

          Trong quá khứ. Hân hoan trong ấy

          Được vị đấy truy tìm. Đó là

              Truy tìm quá khứ đã qua.

 

       Các Phích-Khú ! Thế nào là vị đây 

          Không truy tìm vào ngay quá khứ ?

          Vị ấy tự suy nghĩ tức thời :

             ‘Như vậy là sắc của tôi…

       Thọ, tưởng, hành, thức của tôi… vun trồng

          Trong quá khứ. Nhưng không tìm lấy  

          Sự hân hoan trong ấy. Đó là

              Không truy tìm quá khứ qua.

 

       Còn ước vọng tương lai ra thế nào ?

          Vị ấy nghĩ : ‘Mong sao như vậy

          Là Sắc ấy của tôi tương lai’,

              Hay là : ‘Mong rằng như vầy

       Là thọ, tưởng, hành, thức này của tôi

          Trong tương lai’. Để rồi tìm lấy

          Sự hân hoan trong ấy đêm ngày.

              Này các Tỷ Kheo ! Như vầy

       Là ước vọng trong tương lai (vị thời),

 

          Các Tỷ Kheo ! Còn nơi vị sống

          Không ước vọng tương lai là sao ?

              Vị ấy suy nghĩ như sau :

      ‘Mong rằng như vậy thuộc vào sắc đây

          Của tôi trong tương lai, hiện thực

          Là thọ, tưởng, hành, thức tôi mang

              Trong tương lai. Nhưng chẳng màng,

       Không truy tìm sự hân hoan trong này.

          Các Tỷ Kheo ! Như vầy là sống

          Không ước vọng tương lai (mai sau).

 

              Còn phải hiểu như thế nào

       Các pháp hiện tại cuốn vào, lôi theo ?

          Các Tỷ Kheo ! Ở đây được kể

          Có những kẻ vô văn phàm phu

              Không đến các bậc Thánh từ,

       Không thuần thục pháp phạm trù Thánh nhân

          Không tu tập pháp phần Thánh chất.

          Không đi đến các bậc Chân nhân,

          Không thuần thục pháp Chân nhân,

       Không tu tập pháp Chân nhân tịnh hòa.

 

          Quán sắc đó chính là tự ngã,

          Quán tự ngã có sắc, hay là

              Quán sắc trong tự ngã ta,

       Hay quán tự ngã trong sắc mà có đây.

          Hay vị này quán thọ cùng tưởng,

          Và hành, thức trong hướng trải qua

              Ngũ uẩn kể trên chính là

       Tự ngã, hay tự ngã là có ngay

          Ngũ uẩn này. Hay trong tự ngã

          Có đủ cả ngũ uẩn ở đây,

              Quán ngã trong ngũ uẩn này.

       Này các Phích-Khú ! Như vầy vị đây

          Bị cuốn ngay trong pháp hiện tại.

 

          Không cuốn trong hiện tại là sao ?  

              Đa văn Thánh-đệ-tử nào

       Đi đến bậc Thánh thanh cao xuất trần

          Thuần thục các pháp phần bậc Thánh,

          Tu tập pháp bậc Thánh chánh chân.

              Đi đến các bậc Chân nhân,

       Thuần thục pháp bậc Chân nhân các phần,

          Tu tập pháp Chân nhân các vị,

          Không quán kỹ ngũ uẩn chính là

              Tự ngã. Cũng không quán ra

       Tự ngã có ngũ uẩn và cũng không

          Quán ngũ uẩn là trong tự ngã,

          Không quán ngã trong ngũ uẩn này.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Như vầy

       Là không bị cuốn pháp ngay hiện thì.

 

   – “ Quá khứ không truy tìm gì

        Tương lai chẳng ước vọng chi, xa vời !
        Quá khứ đã đoạn tận rồi

        Tương lai chưa đến  –  Chỉ thời hiện nay

        Tuệ quán ấy chính là đây

        Không động, không chuyển. Biết vầy, nên tu !

        Nay làm nhiệt tâm, cần cù

        Ai biết mai chết, giã từ nhân sinh ?

        Không ai có thể điều đình         

        Với quân Thần Chết thì mình bó tay !

        Hiện tại, nhiệt tâm trú vầy

        Không hề mệt mỏi cả ngày lẫn đêm.

        Nhất Dạ Hiền Giả xướng tên

        An tịnh, trầm lặng, đứng trên mọi người ”.

 

          Khi Ta nói những lời đúng lẽ :

        ‘Các Tỷ Kheo ! Ta sẽ giảng ra

              Cho các ông, đệ tử Ta

      ‘Nhất Dạ Hiền Giả’ – pháp mà trải qua         

          Tổng thuyết và Biệt thuyết như vậy

          Chính do duyên ở đấy nói ra ”.

 

              Thế Tôn thuyết giảng sâu xa

       Chúng Tăng hoan hỷ, tin và hành theo ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*  *   *

 

( Chấm dứt Kinh số 131 : NHẤT DẠ HIỀN GIẢ  – BHADDEKARATTA  Sutta )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7753)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8797)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2832)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4352)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2630)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7884)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12494)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8544)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567