Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

116. Kinh Thôn Tiên

19/05/202011:29(Xem: 6401)
116. Kinh Thôn Tiên

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


116. Kinh THÔN TIÊN

( Isigili sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, đức Thế Tôn Giác Giả

          Trú Ra-Cha-Ga-Há nơi ni  

              Trên núi I-Sí-Ghi-Li       ( Isigili )

      ‘Thôn Tiên’ tên ấy đồng thì gọi đây.

 

          Tại nơi này, Thế Tôn cho gọi

          Chư Tăng đến và nói như vầy :

 

        – “ Các Tỷ Kheo ! Các ông đây

       Có thấy núi Phụ Trọng này hay không ? ”.

         (Vê-Pha-Ra cũng đồng núi ấy)

 

    – “ Thưa có thấy, bạch đức Phật Đà ! ”.

 

        – “ Các Tỷ Kheo ! Đây chỉ là

       Một tên khác của Vê-Pha-Ra này.

          Xa xa đây núi Panh-Đa-Vá

         (Núi Bạch Thiện) kia đã thấy không ? ”.

 

       – “ Thưa có thấy, bạch Thế Tôn ! ”.

 

 – “ Đây chỉ là tên khác thông qua vầy.

       Các ông đây có thấy núi đá

          Vê-Pun-Lá (Quảng Phổ) kia không ? ”. 

 

       – “ Thưa có thấy, bạch Thế Tôn ! ”. 

    __________________________

 

( ) : Thành Vương Xá – Rajagaha, do vua Bimbisara (Tấn-Bà-Sa-

      La) trị vì. Nơi đây Vua đã dâng Đức Phật ngự uyển để thành

     lập Trúc Lâm Tinh Xá (Veluvanavihàra).

(2) : Núi Isigili – Thôn Tiên.           (3) : Các núi khác : Vebhara

    (Phụ Trọng), Pandava (Bạch Thiện), Vepulla (Quảng Phổ).

 – “ Đây chỉ là danh khác đồng kể ra.

          Có thấy núi Ghít-Cha-Ku-Tá  (1)

         (Núi Linh Thứu) sơn dã kia không ? ”.

 

       – “ Thưa có thấy, bạch Thế Tôn !  

 

 – “ Đây chỉ là danh khác đồng tường tri.

          Có thấy núi I-Si-Ghi-Lí ? ”.

         (Tên Thôn Tiên cũng chỉ núi này)

 

       – “ Có thấy, bạch đức Như Lai ! ”. 

 

 – “ Đây chỉ là danh khác nay gọi vầy.

          Chúng Tăng này ! Thuở xưa có các

          Năm trăm vị Độc Giác Phật Đà.  (2)

              Sống trong thời gian lâu xa

       Tại I-Si-Ghí-Lí (là Thôn Tiên)

          Lúc đầu tiên dân chúng đều thấy

          Các vị ấy đi vào núi đây,

              Nhưng thời gian thật lâu dài

       Họ không thấy các vị này trở ra

          Dân chúng liền bảo là : ‘Núi ấy

          Đã nuốt lấy Ẩn-sĩ các vì’.

    _____________________________

 

(1): Gijjhakuta – Linh Sơn hay Linh-Thứu hay núi Kỳ-Xà-Quật.

 

(2) : Có ba bậc Giác ngộ :

  - Toàn Giác Phật – Sammàsambuddha ( Tam-miệu-tam-bồ-đề) là

      bậc chứng đạt Thánh quả Toàn tri Diệu giác và truyền bá giáo

      pháp một cách sâu rộng.

 - Độc Giác Phật – Paccekabuddha  ( hay còn gọi là Duyên Giác )

     là bậc chứng đạt Phật quả, nhưngchỉ chứng ngộ tự mình,  không

     thể giảng pháp cho ai cả.

 - Thanh (Thinh) Văn Giác – Sàvakabuddha, là bậc đã tu hạnh

    Ba-la-mật trong vô lượng kiếp, nhưng với nguyện lực được làm

    bậc Thinh Văn, nghĩa là nghe pháp từ một vị Toàn Giác mà

    chứng ngộ chân lý. 

              Nên gọi ‘I-Si-Ghi-Li’

       Nghĩa là ‘nuốt mất những vì Tiên nhân’.

          Ta sẽ kể về phần danh tánh

          Các vị Thánh Độc Giác Phật này,

              Lắng nghe, suy nghiệm kỹ ngay ”.

 – “ Chúng con nghe kỹ lời Ngài thuyết ra ”. 

 

          Đức Phật Đà nêu danh Giác Giả :

    – “ A-Rít-Thá, U-Pá-Rít-Tha, (1)

              Ta-Ga-Rá-Si-Khi, (1)

       Da-Sát-Si, Su-Đát-Sa-Na (1) lành,

          Pi-Da-Đát-Si, Ganh-Tha-Rá,  (1)

          Pin-Đô-Lá, Ú-Pá-Sá-Pha, (1)

              Ni-Tha cùng Sú-Tá-Va, (1)

       Ta-Tha, Pha-Ví-Tát-Tà, Su-Pha, (1)

          Các vị là Duyên Giác Phật cả,

          Trú lâu trong sơn dã Thôn Tiên.

 

     “ Hữu tình tinh hoa, đại duyên

       Chư vị không khổ, não phiền, ái tham

       Riêng mình chứng đắc lạc an 

       Vô thượng Chánh Giác (khó san sẻ phần

       Sự chứng ngộ cho Thiên, Nhân)

       Chư vị là thượng-thắng-nhân vững bền,

       Vượt ngoài tầm bắn mũi tên

       Lóng nghe, Ta sẽ xướng liền tên ra

       Ngoài những vị vừa kể ra

       Còn có : Mê-Thu-Là, Sum-Pha  (2)            

    ___________________________

 

(1) : Tên các vị Phật Độc Giác (Duyên Giác) :

    Arittha, Uparittha, Tagarasikhi, Yasassi, Sudassana, Piyadassi,

   Gandhara, Pindola, Upasabha, Nitha, Sutava, Tatha, Bhavitatta,

   Subha.   (2) : Methula, Sumbha.

        Cùng A-Thát-Su-Mê-Ga    (*)…

        Át-Tha-Má, A-Ni-Gà, Hinga,

        Hin-Gu và Su-Đát-Tha

        Chư vị Độc Giác Phật Đà tịnh thanh,

        Đã đoạn trừ nguồn tái sanh

        Bậc Đại uy lực, tâm lành vị tha,

        Rồi các vị : Át-Tha-Ka,

        Cha-Li ẩn-sĩ, Kô-Sa-La vì

         Su-Ba-Hu cùng Nê-Mi,

        Ka-Lá, U-Pá-Nê-Mi, Chi-Tà,

        Pát-Si, Sanh-Tá-Chít-Ta,

        Ân-Ga, U-Pá-Ka-Là, Pan-Ga,

        Các ngài chân thật tinh hoa

        Bậc hiền triết, ly trần và như-chân

        Đoạn trừ chấp thủ mọi phần

        Căn rễ đau khổ cõi trần lâu xa.

        Các vị : Gu-Ti-Chi-Ta,

        A-Pa-Rá-Chi-Ta và Sát-Tha,

        Pa-Vát-Ta, A-Si-Ta,

        Sa-Ra-Phan-Gá, Lô-Mà-Han-Sa,

        Ngài Úc-Chân-Gá-Ma-Da,

        Ma-Nô-Ma-Dá, A-Na-Sa-Và,

        Các ngài đánh bại quân ma

        Đoạn trừ chướng ngại, an hòa hoan ca.

        Ban-Thu-Má, Kê-Tu-Ma,

    ________________________________

 

(*) : Chư vị Độc Giác Phật tiếp theo : Atthassumegha, Atthama,

   Angha, Hinga, Hingu, Sudattha, Atthaka, Jali, Kosala, Subahu,

   Nemi, Kala, Upanemi, Jita, Passi, Santacitta, Anga, Upakala,

   Panga, Gutijjita, Aparajita, Sattha, Pavatta, Asita, Sarabhanga,

   Lomahansa, Uccangamaya, Manomaya, Anasava, Bandhuma,

   Ketuma…           

 

 

        Ngài Ta-Đa-Thí, Mút-Tà (*) Bích-chi,

        Bậc vô cấu uế uy nghi

        Su-Măng-Ga-Lá, A-Ri-Da, và

        Ngài Kê-Tung-Bá-Rá-Ga,  (*) …

        Ma-Tan-Gá, Ấc-Chu-Tà, Săng-Ga,

        Đáp-Bi-La, Á-Sây-Ha,

        Ngài Su-Pa-Tít-Thí-Ta, cùng là

        Ngài Khê-Ma-Phí-Ra-Ta,

        Đu-Ran-Na-Dá, Sô-Ra-Ta, và

        Ngài Ấc-Chu-Tá-Ga-Ma,

        Phi thường can đảm tinh hoa hải hà

        A-Nan-Đa và Nan-Đa,

        Ma-Ha-Na-Má, U-Pa-Nan-Đà,

        Bô-Thi, Pha-Rát-Va-Cha,

        Thượng thắng, chóp tóc, đẹp và hào hoa

        Tít-Sa, U-Pá-Tít-Sa,

        U-Pa-Si-Đá-Ri là Bích-chi

        Dứt hữu-kiết-sử tức thì,

        Đoạn trừ tham ái, ngài Mân-Ga-Là

        Cùng các Bích-chi Phật Đà

        Chê-Tà, U-Pá-Ni-Ta các vì

        Độc Giác Phật Si-Đa-Ri

        Đoạn trừ tham, gốc khổ thì cắt qua.

        Sun-Đa-Rá, Cha-Danh-Ta 

        U-Pô-Sa-Thá, Sách-Cha-Na-Mà

    ______________________________

 

( ) : Chư vị Duyên Giác Phật (tiếp theo) :

         Tadathi, Mutta, Sumangala, Ariya, Ketumbaraga, Matanga,

     Accuta, Sangha, Dabbila, Asayha, Supatitthita, Khemabhirata,

     Durannaya, Sorata, Accutagama, Ananda, Nanda, Mahànàma,

     Upananda, Bodhi, Bharadvaja, Tissa, Upatissa, Upasidari,

     Jeta, Upanita, Sundara, Jayanta, Uposatha, Saccanàma.

 

        Pa-Đu-Ma, Úp-Pa-La   (*) …

        Pa-Đu-Mút-Tá-Ra và Kanha

        Rách-Khi-Ta, Páp-Ba-Ta

        Ma-Nát-Thát-Thá, Vi-Ta-Ra-Gà

        Bích-chi Phật Sô-Phi-Ta

        Với tâm giải thoát, từ hòa tịnh thanh

        Cùng các vị chưa nêu danh

        Năm trăm Độc Giác an lành Bích-chi

        Những bậc Đại lực Đại uy

        Dứt luân hồi, đoạn tức thì tử sanh.

        Hãy đảnh lễ thật chí thành

        Chư Đại-ẩn-sĩ tịnh thanh vô lường

        Thắng mọi chiến trận các phương

        Niết Bàn tấn nhập, nêu gương xuất trần.

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*   *

 

( Chấm dứt Kinh số 116 :  THÔN TIÊN  –

ISIGILI  Sutta )

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7758)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8804)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2834)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4356)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2632)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7887)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2874)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12497)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2760)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8551)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567