Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

133. Kinh Đại Ca-chiên-diên Nhất Dạ H.G

19/05/202011:34(Xem: 9480)
133. Kinh Đại Ca-chiên-diên Nhất Dạ H.G

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


133. Kinh ĐẠI CA-CHIÊN-DIÊN NHẤT DẠ HIỀN GIẢ 
(Mahàkaccànabhaddekaratta  Sutta)

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả

          Trú Vương-Xá – Rá-Chá-Ga-Ha      (Rajagaha)

              Tại Tinh Xá Ta-Pô-Đa                   (Tapoda)

       Lúc ấy, Tôn-giả tên Sa-Mít-Thì          (Samiddhi)

          Tảng sáng, đi đến nơi Tinh Xá

          Ta-Pô-Đá, tắm rửa toàn thân

              Kỳ rửa kỹ lưỡng tay chân,

       Khi lên khỏi nước, để trần thân trên

          Chỉ mặc lên một chiếc choàng tắm

          Đứng hong khô và ngắm bình minh.

 

              Bỗng nhiên xuất hiện thình lình

       Thiên thần một vị thân hình nghiêm trang

          Phát hào quang, dung sắc thù thắng

          Chói sáng tận cả vùng nơi đây.

              Đến gặp vị Tôn-giả này

       Thi lễ rồi đứng bên ngài, thưa qua :

 

    – “ Tỷ Kheo Sa-Mít-Thi có biết

          Có thọ trì tổng & biệt thuyết trong

             ‘Nhất dạ Hiền-giả’ hay không ? ”. 

 

 – “ Nhất dạ Hiền-giả’ tôi không thọ trì

          Chưa tường tri tổng thuyết, biệt thuyết.

          Còn Hiền-giả có biết, thọ trì

              Tổng thuyết, biệt thuyết mọi thì

      ‘Nhất dạ Hiền-giả’ diệu kỳ hay không ? ”.

 

    – “ Này Tỷ Kheo ! Tôi không trì thọ

          Về điều đó. Nhưng hỏi là ngài

              Có thọ trì bài kệ đây

      ‘Nhất dạ Hiền-giả’ hằng ngày hay không ? ”.

 

    – “ Này Hiền-giả ! Tôi không trì thọ

          Bài kệ đó. Thế còn chính ngài

              Có thọ trì bài kệ này ? ”.

 

 – “ Này Tỷ Kheo ! Bài kệ đây mọi thì

          Tôi không có thọ trì kệ đó

          Nhưng Hiền-giả hãy cố học thông

              Tổng thuyết và biệt thuyết trong

      ‘Nhất dạ Hiền-giả’, và mong là ngài

          Hãy học ngay cho thật thuần thục

          Tổng thuyết, biệt thuyết thực đủ đầy

             ‘Nhất dạ Hiền-giả’ Kinh này.

       Vì điều đó liên hệ ngay đến điều

          Là mục tiêu, căn bản Phạm hạnh ”.

 

          Vị Chư Thiên chói ánh sáng này 

              Nói xong, lập tức biến ngay,

       Sư Sa-Mít-Thí sáng ngày hôm sau

          Đi đến Phật, bước vào hương thất

          Đảnh lễ Phật, rồi ngồi một bên

              Hướng Phật, Tôn-giả thưa lên

       Câu chuyện đã gặp vị Thiên thần này

          Đã nói chuyện đề tài tổng thuyết       

          Và biệt thuyết ‘Nhất dạ Hiền nhân’

              Rồi thưa : “ Bạch đấng Xuất Trần !

       Xin Ngài giảng giải về phần sâu xa

         ‘Nhất dạ Hiền-giả’ qua tổng thuyết

          Và biệt thuyết, nghĩa lý sâu dày ”.

 

        – “ Này Tỷ Kheo ! Hãy nghe đây !

       Và suy nghiệm kỹ điều này, nhớ ghi ”.

 

          Sa-Mít-Thi Tôn-giả vâng đáp,

          Nghe Thế Tôn thuyết pháp uy nghi :

 

   – “ Quá khứ không truy tìm gì

        Tương lai chẳng ước vọng chi, xa vời !
        Quá khứ đã đoạn tận rồi

        Tương lai chưa đến  –  Chỉ thời hiện nay

        Tuệ quán ấy chính là đây

        Không động, không chuyển. Biết vầy, nên tu !

        Nay làm nhiệt tâm, cần cù

        Ai biết mai chết, giã từ nhân sinh ?

        Không ai có thể điều đình         

        Với quân Thần Chết thì mình bó tay !

        Hiện tại, nhiệt tâm trú vầy

        Không hề mệt mỏi cả ngày lẫn đêm.

        Nhất Dạ Hiền Giả xướng tên

        An tịnh, trầm lặng, đứng trên mọi người ”.

 

          Phật nói xong, từ nơi ngồi ấy

          Liền đứng dậy, hương thất đi vào.

              Khi Phật đi không bao lâu

       Chúng Tăng nơi ấy cùng nhau luận bàn :

 

    – “ Này Chư Hiền ! Đấng Toàn Giác Giả

          Sau khi đã giảng tổng thuyết ra

              Cách vắn tắt cho chúng ta

       Rồi Ngài đứng dậy trở qua thất Ngài.

          Không biết ai có thể giảng giải

          Thật rộng rãi để Chúng nhớ ghi

             ‘Nhất dạ Hiền-giả’ pháp ni

       Để Chúng y giáo hành trì chánh chân ? ”.

 

          Trong Chúng Tăng có vị liền nghĩ :    

 

    – “ Ồ ! Có vị Tôn-giả tài ba

              Ma-Ha Kách-Chá-Da-Na    (Mahà Kaccayana)

       Hay Ma-Ha Kách-Cha-Na – cũng là

          Ngài Đại Ca-Chiên-Diên – đích thực

          Đã được Đức Thế Tôn tán dương

              Các đồng-phạm-hạnh các phương,

       Những bậc có trí cũng thường ngợi ca

          Ma-Ha Kách-Cha-Na ngài đó

          Có thể có giải thích rộng xa

              Phần tổng thuyết mà Phật Đà

       Chỉ nói vắn tắt; chúng ta thực tình

          Chưa hiểu rõ. Vậy mình đến cả

          Hỏi Tôn-giả Đại Ca-Chiên-Diên

              Về ý nghĩa thật thâm uyên ”.

 

       Cùng đi đến Ca-Chiên-Diên ngài này 

          Nói với ngài những lời thăm hỏi

          Cùng ngồi xuống và nói ôn hòa :

 

        – “ Thưa Hiền-giả Kách-Cha-Na !

      ‘Nhất dạ Hiền-giả’ Phật Đà thuyết ra

          Vắn tắt, mà không giải rộng rãi,

          Nói xong Ngài đứng dậy về phòng.

              Không biết ai giảng cho thông,

       Nhưng chúng tôi biết là trong Tăng Đoàn

 

          Chính Tôn-giả là hàng đệ tử

          Được Thế Tôn Điều Ngự tán dương,

              Phạm hạnh, trí giả cũng thường

       Tán thán Tôn-giả tận tường khả tri.

          Xin Tôn-giả từ bi giải thích,

          Chúng tôi được lợi ích dài lâu ”.

 

        – “ Chư Hiền ! Ví dụ như sau :

       Một người cần đến, tìm cầu lõi cây

          Đứng trước một thân cây thật lớn

          Có lõi cây, liền đốn cây này

              Bỏ rễ và bỏ thân cây,

       Nghĩ rằng cần kiếm lõi cây quý này

          Ở trong các nhánh cây và lá.

 

          Việc làm chư Tôn-giả cũng vầy !

              Các vị đứng trước mặt Ngài

       Thế Tôn Đại Giác tràn đầy trí minh

          Nhưng các vị tự mình vượt khỏi

          Đức Thế Tôn, không hỏi Phật Đà,

              Nghĩ rằng cần phải hỏi qua

       Tôn-giả Kách-Chá-Da-Na điều này

          Về ý nghĩa mà Ngài Thiện Thệ

          Đã tổng thuyết giảng thế mà thôi !

 

              Nhưng này Chư Hiền ! Mọi thời 

       Những gì cần biết Phật thời biết ngay,

          Thấy những gì mà Ngài cần thấy,

          Bậc có mắt, vô ngại Trí hiền,

              Bậc Pháp-giả, bậc Phạm Thiên,

       Bậc Tuyên-thuyết-giả dẫn liền mục tiêu

          Bậc đem điều bất tử ban bố,

          Bậc Pháp Chủ, Giác ngộ, Như Lai               

 

              Điều thắc mắc, nghi vấn này

       Các Hiền-giả phải đến ngay Phật Đà

          Hỏi Phật Đà về ý nghĩa đó

          Khi đã có lời dạy sâu xa

              Theo đó, thọ trì trải qua ”.

 

 – “ Thưa Tôn-giả Kách-Cha-Na ! Đúng vầy

          Chắc chắn Ngài Toàn Tri Giác Giả

          Dạy như là Tôn-giả nói ra

              Chúng tôi nên hỏi Phật Đà

       Khi Ngài giảng giải, thiết tha thọ trì.

          Nhưng Tôn-giả là vì Đệ nhất

          Về Luận nghị, chân thật bất hư

              Có thể giải thích như như

       Một cách rộng rãi do từ kiến văn

          Nên mong rằng Tôn-giả hoan hỷ

          Giảng giải kỹ nếu không thấy phiền ”.

 

        – “ Như vậy thì, này Chư Hiền !

       Hãy nghe, suy nghiệm tinh chuyên điều này ”.

 

    – “ Thưa vâng, chúng tôi đây nghe kỹ ”.  

 

          Sau đó vị Kách-Chá-Da-Na

              Hay Ma-Ha Kách-Cha-Na

       Nói rằng : “ Lời đấng Phật Đà nói ra

          Thật vắn tắt, không qua giải kỹ

          Sau đó đấng Toàn Trí rời đi :

 

   – “ Quá khứ không truy tìm gì

        Tương lai chẳng ước vọng chi, xa vời !
        Quá khứ đã đoạn tận rồi

        Tương lai chưa đến  –  Chỉ thời hiện nay

        Tuệ quán ấy chính là đây

        Không động, không chuyển. Biết vầy, nên tu !

        Nay làm nhiệt tâm, cần cù

        Ai biết mai chết, giã từ nhân sinh ?

        Không ai có thể điều đình         

        Với quân Thần Chết thì mình bó tay !

        Hiện tại, nhiệt tâm trú vầy

        Không hề mệt mỏi cả ngày lẫn đêm.

        Nhất Dạ Hiền Giả xướng tên

        An tịnh, trầm lặng, đứng trên mọi người ”.

 

          Này Chư Hiền ! Vậy thời tuần tự

      *  Sự truy tìm quá khứ là sao ?

              Vị ấy suy nghĩ như sau :

      ‘Mắt tôi quá khứ trước sau như vầy,

          Các sắc-pháp cũng tày như vậy,

          Thức ở đấy bị dục & ái vây

              Bị dục & ái trói chặt vầy

       Vị ấy lại thấy lòng đầy hân hoan,

          Vì hân hoan, truy tìm quá khứ.

 

          Rồi tuần tự : tai, mũi, lưỡi, thân,

              Và ý của tôi trong phần

       Quá khứ là thế, pháp phân như vầy.

          Thức ở đây bị dục và ái

          Trói chặt lại, nên y tỏ ra

              Hân hoan, tìm quá khứ mà !

 

       Này Chư Hiền ! Thế nào là vị đây

      *  Không truy tìm ở ngay quá khứ ?

         ‘Mắt tôi thời quá khứ như vầy,

              Các sắc-pháp là như vầy

       Dục không trói chặt thức đây trong vòng,

          Thức cũng không bị ái trói chặt,

 

          Vị ấy tất không có hân hoan.

              Vì trong ấy không hân hoan

       Quá khứ vị ấy không màng truy ra’.

 

          Tai, mũi và lưỡi, thân cùng ý

          Của tôi trong quá khứ như vầy,

              Các sắc, tiếng, hương… như vầy

       Các vị, xúc, pháp… như vầy ở đây

          Thức không bị cả hai : dục, ái

          Trói chặt lại, nên không hân hoan,

              Trong ấy không có hân hoan

       Quá khứ vị ấy không màng truy ra,

          Như vậy là không tìm quá khứ.

 

      *  Sao là sự ước vọng tương lai ?

         ‘Mong mắt tôi trong tương lai

       Sẽ là như vậy. Sắc đây như vầy’.

          Và vị này hướng tâm nắm lấy

          Cái gì chưa được ấy – chẳng chầy 

              Vì duyên hướng tâm như vầy

       Vị ấy hoan hỷ. Đoạn rày ước mong

          Về tương lai, nên lòng ước vọng :

         ‘Tôi ước vọng rằng tai của tôi,

              Mũi, lưỡi, thân, ý của tôi

       Trong tương lai sẽ bày phơi như là

          Sắc, thinh, hương, vị và xúc, pháp

          Là như vậy. Giải đáp như vầy

              Do tương lai ước vọng này

       Vị ấy liền hướng tâm ngay tức thì

           Muốn lấy được cái gì chưa được.

           Vì duyên trước hướng tâm như vầy

               Vị ấy hân hoan ở đây

       Do hân hoan ấy, có ngay vấn đề

          Ước vọng về tương lai như thế

          Đây được kể ước vọng tương lai.

 

              Sao không ước vọng tương lai ? 

      ‘Mong mắt tôi trong tương lai như vầy

          Sắc pháp là như vầy. Vị ấy

          Không hướng tâm để lấy miệt mài

              Cái gì chưa được, được ngay

       Do duyên không hướng tâm đây, chẳng màng

          Vị ấy không hân hoan trong đó

          Nên không có ước vọng tương lai :

              Mong rằng mũi, lưỡi và tai,

       Thân, ý… của tớ tương lai như vầy

          Tiếng, hương, vị, xúc này và pháp

          Là như vậy. Với các điều này

              Vị ấy không hướng tâm ngay

       Lấy cho được cái vị này ước mong

          Do duyên không hướng tâm như vậy

          Nên vị ấy không hân hoan gì,

              Do không hân hoan, nên chi

       Vị ấy không ước vọng gì tương lai.

 

      *  Chư Hiền này ! Thế nào bị cuốn

          Trong trạng huống hiện tại pháp vầy ?

              Nếu mắt & các sắc-pháp này

       Đều có trong hiện tại đây, cùng là

          Thức thì bị dục và ái ấy

          Trói chặt lại trong hiện tại này,

              Vì dục & ái trói chặt vầy

       Vị ấy hoan hỷ. Do đầy hân hoan

          Vị ấy đang bị lôi cuốn mãi

          Trong các pháp hiện tại như vầy.

 

              Này chư Hiền-giả ! Nếu tai &

       Các tiếng. Nếu mũi & hương đây, cùng là

          Lưỡi & các vị ; thân và các xúc,

          Ý & các pháp liên tục ở đây

              Đều có trong hiện tại này

       Và thức vị ấy bị ngay dục tình

          Trói chặt mình trong hiện tại ấy

          Thì như vậy là bị cuốn lôi

              Trong pháp hiện tại tức thời.

 

   *  Thế nào không bị cuốn lôi mọi bề

          Trong các pháp thuộc về hiện tại ?

          Chư Hiền ! Nếu mắt ấy ở đây

              Cùng các sắc pháp – cả hai

       Đều có trong hiện tại đây rõ bày

          Và thức của vị này bị dục

          Cùng ái bị thằng thúc buộc ràng

              Cũng trong hiện tại thời gian

       Vì thức không bị buộc ràng vào trong

          Dục và ái, nên không hoan hỷ

          Do không có hoan hỷ, nên rồi

              Vị ấy không bị cuốn lôi

       Trong các pháp hiện tại thời hiển nhiên.

 

          Này Chư Hiền ! Nếu lục căn đó 

          Mắt, tai nọ, mũi, lưỡi, ý, thân

              Sánh chung cùng với lục trần

       Sắc, thinh, hương, vị, xúc phần, pháp đây

          Đều có mặt ở đây : hiện tại

          Và thức của vị ấy trải sang

              Không bị dục & ái buộc ràng  

       Trong hiện tại ấy. Thức càng thoát ra

          Vì không bị dục và ái ấy

          Trói chặt lại, nên không hân hoan

              Do trong ấy không hân hoan

       Không bị các pháp hiện đang lôi liền.

          Này Chư Hiền ! Đó là trạng huống

          Không bị cuốn trong pháp hiện nay.

 

              Chư Hiền ! Phần tổng thuyết này

       Đức Thế Tôn đã trình bày đại cương

          Không giải thích tận tường, chu tất

          Khiến Chư Hiền thắc mắc, còn nghi.

 

   – “ Quá khứ không truy tìm gì

        Tương lai chẳng ước vọng chi, xa vời !
        Quá khứ đã đoạn tận rồi

        Tương lai chưa đến  –  Chỉ thời hiện nay

        Tuệ quán ấy chính là đây

        Không động, không chuyển. Biết vầy, nên tu !

        Nay làm nhiệt tâm, cần cù

        Ai biết mai chết, giã từ nhân sinh ?

        Không ai có thể điều đình         

        Với quân Thần Chết thì mình bó tay !

        Hiện tại, nhiệt tâm trú vầy

        Không hề mệt mỏi cả ngày lẫn đêm.

        Nhất Dạ Hiền Giả xướng tên

        An tịnh, trầm lặng, đứng trên mọi người ”.

 

          Đó là lời Thế Tôn nói đó

          Vắn tắt mà không có giảng ra

              Một cách chi tiết, sâu xa.

       Ý nghĩa đó tôi hiểu qua như vầy. 

          Chư Hiền nên đến ngay hương thất

          Của Đức Phật, hỏi nghĩa cao sâu

              Thế Tôn giải thích thế nào

       Chư Hiền như vậy y vào, hành theo ”.

 

          Các Tỷ Kheo nói trên hoan hỷ

          Đồng tín thọ lời chỉ dẫn ra

              Của Tôn-giả Kách-Cha-Na,

       Từ giả, đến chỗ Phật Đà tịnh thanh

          Trước Phật Đà, chí thành đảnh lễ

          Rồi một bên Thiện Thệ ngồi vào

              Thuật lại tự sự trước sau :

       Do các Phích-Khú thỉnh cầu thiết tha

          Nên Kách-Chá-Da-Na Tôn-giả

          Đã thay Phật diễn tả rộng ra

              Những chỗ mà đức Phật Đà

       Chỉ nói vắn tắt, Tăng-Già chưa thông.

 

          Đức Thế Tôn ôn tồn đáp trả :

    – “ Các Tỷ Kheo ! Kách-Chá-Da-Na

              Bậc Đại-trí-tuệ hiểu xa

       Đệ nhất Luận-nghị, thật là viên thông

          Nếu các ông hỏi Ta điều ấy

          Ta giảng giải cũng giống như là

              Ma-Ha Kách-Chá-Da-Na

       Đã giải thích đó. Tăng-Già nghe xong

          Phải hiểu thông ý nghĩa như vậy

          Hãy như vậy tín thọ, hành trì ”.

 

              Chư Tăng nghe đấng Từ Bi

       Hoan hỷ tín thọ những gì đã nghe ./- 

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

( Chấm dứt Kinh số 133 : ĐẠI CA-CHIÊN-DIÊN NHẤT DẠ HIỀN GIẢ  – MAHÀKACCÀNABHADDEKARATTA  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7758)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8804)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2834)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4355)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2632)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7887)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2874)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12497)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2760)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8551)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567