Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

61. Tiểu Kinh Giáo Giới La-Hầu-La

19/05/202010:27(Xem: 9185)
61. Tiểu Kinh Giáo Giới La-Hầu-La

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com



61. Kinh GIÁO GIỚI LA-HẦU-LA ở rừng AMBALA
(Ambalatthikà Ràhulovàda sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
Một thời, đức Thế Tôn Giác Giả
          Trú Vương Xá – Ra-Chá-Ga-Ha
              Tinh Xá Vê-Lú-Va-Na  (1)
Hay Trúc Lâm Tự cũng là nơi ni,
          Ka-Lanh-Đa-Ka-Ni-Vá-Pá  (2)
( Chỗ vốn đã nuôi sóc hằng hà ).
 
              Lúc ấy, có Ra-Hu-La  (3)
    ( Tức Tôn-giả La-Hầu-La vị này )     
          Đã lâu ngày xuất gia nhập chúng
          Tôn-giả cũng đang trú không xa
              Tại Am-Ba-Lát-Thi-Ka  (4)
       Tức khu rừng Am-Ba-La, sớm chiều.
 
          Đức Thế Tôn buổi chiều hôm ấy
     _________________________
 
 (1) : Trúc Lâm Tinh Xá – Veluvanavihàra  tại Thành Vương Xá
        Rajagaha  do vua Bimbasara dâng cúng đến Đức Phật .
(2) : Kalandakanivapa  – chỗ nuôi dưỡng sóc .
(3) : Tôn giả Rahula , được phiên âm là La-Hầu-La , con của
    Đức Phật khi ngài còn là Thái Tử . Xuất gia Sa-Di  lúc mới có
   7 tuổi . Tính còn trẻ con, nên thường hay nghịch ngợm nói giỡn
  nói láo với mọi người . Ví dụ với những vị xuất gia hay Cư sĩ nào 
  hỏi nơi ở của Đức Phật thì thầy chỉ nơi khác, khiến họ phải vất
 vả tìm mãi mới gặp Phật . Đức Phật đã tùy thời giáo hóa Rahula. 
(4) : Khu rừng Ambala  ( Ambalatthika ).
Trung Bộ (T. 2) K. 61 :GIÁO GIỚI LA-HẦU-LA   *  MLH –  352
 
          Từ thiền-định đứng dậy, đi qua
              Chỗ Tôn-giả La-Hầu-La .
       Tôn-giả thấy Phật từ xa đến, thời
          Liền chuẩn bị chỗ ngồi, nước rửa
          Thỉnh Phật ngồi, rồi rửa chân Ngài
              Xong, đảnh lễ Thế Tôn ngay
       Một bên ngồi xuống, tỏ bày kính tôn.
 
          Phật để lại nước còn ít ỏi   
Trong chậu nước, rồi hỏi lên rằng :
       – “  La-Hầu-La ! Ông thấy không ?   
       Nước có rất ít trong lòng chậu đây ? ”.
 
    – “ Bạch Thế Tôn ! Điều này đúng vậy ”.
 
    – “ Cũng ít vậy, này Ra-Hu-La !
              Là Sa-môn-hạnh, người mà
       Biết nhưng nói láo, không xa quý, tàm ”.
 
          Đức Thế Tôn Kiều-Đàm sau đó 
          Đổ hết nước đã có trước đây
              Rồi hỏi Tôn-giả như vầy :
 
 – “ Có thấy đổ nước trong này đi không ? ”.
 
    – “ Bạch Thế Tôn ! Con đây có thấy ”.
 
    – “ Cũng như vậy, Cũng đổ vất mau
              Là Sa-môn-hạnh người nào
       Biết mà nói láo, không sao quý, tàm ”.
 
          Phật lại làm chậu kia lật úp  
          Hỏi : “ Ông thấy lật úp chậu không ? ”.
 
        – “ Thưa vâng, bạch Đức Thế Tôn ! ”.
 
 – “ Cũng lật úp vậy, Sa-môn-hạnh nào  
          Của người sao biết mà nói dối
Trung Bộ (T. 2) K. 61 :GIÁO GIỚI LA-HẦU-LA   *  MLH –  353
 
          Không tàm quý, dấu lỗi đêm ngày ”.
 
              Rồi Phật lật ngửa chậu này
       Hỏi : “Ông có thấy chậu này trống không ? ”.
 
    – “ Thưa vâng, bạch Thế Tôn ! Trống rỗng ”.
 
    – “ Cũng trống rỗng như vậy, hiểu mau
              Là Sa-môn-hạnh người nào
       Biết mà nói dối, không sao quý tàm.
        ( Không hổ thẹn đã làm tội lỗi,
          Không ghê sợ tội lỗi gây ra )
              Ví như, này La-Hầu-La !
       Thớt voi vua có cặp ngà dài thay !
Như cán cày mọi bề bóng trắng.
          Được khéo luyện, xông trận chiến trường
              Khi lâm trận, voi này thường
       Dùng hai chân trước cũng dường chân sau,
          Phần chân trước, chân sau xông tới
          Dùng đầu, tai, đuôi với cặp ngà,
Nhưng bảo vệ vòi tối đa.
       Người nài thấy vậy, nghĩ qua như vầy :
 ‘Con voi này xông pha như thế
          Quyết bảo vệ cái vòi tận tình
              Không quăng bỏ đời sống mình’.
 
       Ra-Hu-Lá ! Còn khi nhìn xét soi  
          Một con voi khác khi lâm trận
          Bốn chân lẫn sau trước thân chung
Đầu, tai, ngà, đuôi… đều dùng
Kể cả vòi nó cũng cùng xông pha.
          Người nài thấy, nghĩ là : ‘Voi đó
          Đã quăng bỏ mạng sống mình đi !
              Trong mọi tình huống, mọi thì
Trung Bộ (T. 2) K. 61 :GIÁO GIỚI LA-HẦU-LA   *  MLH –  354
 
       Voi ấy không có việc chi không làm’.
 
          Cũng vậy, ai không tàm không quý  
          Dầu biết kỹ mà nói dối vầy,
              Thời Ta nói rằng người này
       Không việc gì ác y đây không làm.
 
          La-Hầu-La ! Bao hàm mọi việc
          Phải cương quyết học tập sớm trưa :
 ‘Quyết không nói láo, dối lừa
       Dầu là nói giỡn phải chừa, tránh xa’.
 
          Ra-Hu-La ! Nghĩ sao sự thể 
          Mục đích của gương để làm gì ? ”.   
 
         – “ Bạch Phật ! Mục đích mọi thì
       Để mà phản tỉnh những chi sai lầm ”.
 
    – “ Ra-Hu-La ! Tự tâm hối quá
          Sau khi đã phản tỉnh nhiều lần
              Hãy hành thân nghiệp tinh cần
       Khẩu nghiệp, ý nghiệp tự thân thực hành.
          La-Hầu-La ! Muốn hành tam nghiệp
          Hãy phản tỉnh tam nghiệp ấy ra :
             ‘Thân & khẩu & ý nghiệp của ta
       Có thể đưa đến sâu xa việc này :
Tự hại hay hại người, hoặc khiến
          Hại cả hai : “bất thiện ba phần”,
              Đưa đến đau khổ vô ngần,
       Quả báo đau khổ trào dâng tức thì ’.
          Ra-Hu-La ! Trong khi phản tỉnh
          Biết tam nghiệp này chính chẳng lành
Ông nhất định chớ thực hành.
 
       Còn khi phản tỉnh nghiệp lành ba nơi    
Trung Bộ (T. 2) K. 61 :GIÁO GIỚI LA-HẦU-LA   *  MLH –  355
 
          Biết không thể khiến thời tự hại
          Không hại người, không hại cả hai.
              Thân & khẩu & ý-thiện-nghiệp này
       Đưa quả báo lạc, đêm ngày vui an.
          Tam thiện-nghiệp chu toàn mọi việc
          Ông nên làm khi biết như vầy
              Khi muốn, hay đang làm đây
       Cần phải phản tỉnh, đủ đầy nhớ ghi :
 
Là bất-thiện-nghiệp thì từ bỏ,
          Tam nghiệp đó thiện hảo : cần làm.
              Khi thân &khẩu & ý nghiệp làm
       Cần phải phản tỉnh việc làm ấy ngay :
          Tam nghiệp này ta làm bất thiện
Đưa đến chuyện quả báo khổ đau.
              Thân & khẩu & ý nghiệp khổ đau
       Tam nghiệp như vậy, phải mau thưa trình,
          Phải phát lồ, tự mình tàm, quý
          Trước bậc trí Phạm hạnh các vì,
              Trước các Đạo Sư uy nghi.
 
       Sau khi phát lộ, tức thì lo ngay  
          Cần phòng hộ tương lai không phạm.
          Nếu phản tỉnh nghiệp cảm thực hành
              Thân & khẩu & ý nghiệp thiện lành 
       Không khiến tự hại, không sanh hại người,
          Không cả hai : hại người, tự hại,
          Thân & khẩu & ý nghiệp ấy thiện hiền,
               Đưa đến an lạc, tịnh yên
       Quả báo an lạc sẽ liền theo mau      
          Trước & đang & sau khi hành tam nghiệp
          Sự phản tỉnh cần kíp làm nhanh                   
Trung Bộ (T. 2) K. 61 :GIÁO GIỚI LA-HẦU-LA   *  MLH –  356
 
              Với thân & khẩu & ý nghiệp lành
       Ông phải an trú tịnh thanh, an bình
          Tâm hoan hỷ, tự mình tiếp tục
          Trong mọi lúc thiện pháp tu trì
              Trong thời quá khứ qua đi
       Sa-môn, Phạm-chí nào khi thường hằng
          Đã tịnh hóa nghiệp thân, khẩu, ý.
          Thời vị lai Phạm-chí, Sa-môn 
              Tịnh hóa ba nghiệp vuông tròn
       Sau khi phản tỉnh sắt son nhiều lần
Các vị dần tịnh hóa ba nghiệp.
 
          La-Hầu-La ! Cần kíp nghĩ rằng :
 ‘Sau khi phản tỉnh nhiều lần
       Tôi sẽ tịnh hóa nghiệp thân của mình.
          Khi tự mình nhiều lần phản tỉnh
          Khẩu & ý-nghiệp cũng tịnh hóa ngay’.
 
              Như vậy, Ra-Hu-La này !
       Cần phải tu học, theo đây hành trì ”.
 
          Lời Phật dạy uy nghi, cao cả
          La-Hầu-La Tôn-giả hân hoan
              Cung kính đảnh lễ nghiêm trang
       Hoan hỷ, tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
 
*   *   *
 
(  Chấm dứt  Kinh số 61 :  GIÁO GIỚI LA-HẦU-LA Ở Rừng AMBALA  –  AMBALATTHIKÀ RÀHULOVÀDA  Sutta  )
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7761)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8804)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2834)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4356)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2633)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7888)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2874)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12498)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2762)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8551)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567