Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

152. Kinh Căn Tu Tập

19/05/202011:40(Xem: 7029)
152. Kinh Căn Tu Tập

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


152. Kinh CĂN TU TẬP

( Indriya-bhàvanà sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả 

          Tại Ka-Chân-Ga-Lá (1) trú qua

              Ở Mu-Khê-Lú-Va-Na. (1)

       Có thanh niên Ú-Tá-Rà Bàn-môn

          Đệ tử Bà-la-môn được tả

          Là Pa-Sa-Ri-Dá danh gia.

              Chàng thanh niên Út-Ta-Ra  (2)

       Đi đến trú xứ Phật Đà không xa.

          Sau khi đến, chàng ta liền nói

          Lời chào đón, thăm hỏi xã giao

              Rồi Bàn-môn trẻ ngồi vào

       Một bên cạnh đức thanh cao Phật-Đà.

 

          Phật hỏi Út-Ta-Ra ý nghĩ :

 

    – “ Út-Ta-Rá Phạm-chí ! Thầy ông

              Pa-Sa-Ri-Dá (2) Bàn-môn

       Có giảng cho đệ tử thông hiểu về

         ‘Căn tu tập’ mọi bề không vậy ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn Giả ! Điều ấy có mà !

              Thầy tôi Pa-Sá-Ri-Da

       Về ‘Căn tu tập’ thuyết ra rõ bày ”.

 

    – “ Nhưng Út-Ta-Ra này ! Phạm-chí

          Pa-Sa-Rí-Dá đã trình bày

    ________________________________

 

(1) : Địa phương Kajangala tại Mukheluvana.

(2) : Bà-la-môn trẻ tên Uttara, đệ tử Bà-la-môn Pasariya.

 

              Nói về căn tu tập này

       Để các đệ tử hiểu ngay thế nào ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn Giả ! Dựa vào lời dạy :

          Không nên thấy sắc với mắt này,

              Không nên nghe tiếng với tai,

       Thưa Tôn Giả ! Là lời thầy của tôi ”.

 

    – “ Nếu là như vậy, thời theo đó

          Người mù là người có căn tu

              Người điếc cũng có căn tu,

       Không thấy sắc với người mù tối thui,

          Vì người đui dù là có mắt

          Cũng không thể thấy sắc, đúng vầy.

              Điếc không nghe tiếng với tai.

       Mù, điếc là mẫu người thầy ngươi mong ? ”.

 

          Phật nói xong, thanh niên im lặng 

          Hổ thẹn, rụt vai hẳn, cúi gầm

              Không nói tiếng nào, như câm.

       Thế Tôn biết hắn thẹn thầm, hổ ngươi,

          Biết rằng người thanh niên Phạm-chí

          Không thể nói gì, chỉ lặng trang,

              Thế Tôn liền gọi A-Nan :

 

 – “ Trong sự kiện vậy, A-Nan-Đa này !  

          Bàn-môn đây : Pa-Sa-Ri-Dá

          Đã thuyết cho tất cả học trò

              Các căn tu tập nhỏ to

       Một cách khác lạ, nhưng do trong điều

          Giới luật nhiều bậc Thánh nghiêm mật

          Vô thượng Căn tu tập khác xa ”.

 

         – “ Bạch đấng Thiện Thệ Phật Đà !

       Nay đã đến lúc thuyết ra việc này

          Căn tu tập các ngài bậc Thánh

          Trong giới luật chân chánh uy nghi.

              Thỉnh Thế Tôn giảng pháp ni

       Được nghe, Tăng Chúng thọ trì, hành qua ”.

 

    – “ A-Nan-Đa ! Hãy nghe, suy nghĩ

          Suy nghiệm kỹ. Ta sẽ giảng ra ”.

 

        – “ Thưa vâng, bạch đức Phật Đà ! ”.

       A-Nan vâng đáp. Phật Đà thuyết ngay :

 

    – “ A-Nan này ! Thế nào hiểu khắp

          Vô thượng căn tu tập mãn viên

              Trong giới luật bậc Thánh hiền ?

       Vị Tỷ Kheo mắt thấy liền sắc đây

          Khởi lên ngay khả ý, cùng với

          Bất khả ý khởi tới tức thì.

              Vị ấy như vầy tuệ tri :

      ‘Khả ý, bất khả ý thì khởi lên

          Nơi ta, nên ta biết rõ vậy.

          Cái này khởi lên đấy, hữu vi

              Nên thô. Nhưng mà cái ni

       An tịnh, thù diệu, tức thì Xả mau.

          Cho nên dầu cái gì khởi phát

          Khả ý, bất khả ý, hay là

              Khả ý và bất khả – mà

       Tất cả đều diệt, còn là Xả đây.

 

          A-Nan này ! Như người có mắt 

          Liền mở mắt, nhắm mắt lại, và

              Nhắm mắt rồi mở mắt ra.

       Cũng vậy, như thế hiểu qua nói vào

          Là tốc độ, sự mau chóng ấy

          Và như vậy là dễ dàng đây.

              Với cái gì đã khởi ngay

       Khả ý, bất khả ý hay nó là

          Khả ý và bất khả ý đó

          Đều đoạn diệt, chỉ có Xả này    

              Tồn tại đơn độc ở đây.

       Trong giới luật bậc Thánh, này A-Nan !

          Như vậy gọi rõ ràng đúng hướng

          Căn tu tập vô thượng là đây

              Với mắt nhận thức sắc này.

 

       Lại nữa, Phích-Khú với tai nghe liền   

          Tiếng khởi lên khả ý, bất khả –

          Khả ý và bất khả ý này,

              Vị ấy tuệ tri như vầy :

      ‘Khả ý, bất khả ý này khởi ra

          Ở nơi ta. Cùng là có cả

          Khả ý và bất khả ý ni

              Khởi lên nơi ta tức thì

       Cái này đã khởi, thô vì hữu vi,

          Nhưng cái ni an tịnh, thù diệu

          Tức là Xả được hiểu mọi thì’.

 

              Cho nên dầu cho cái gì

       Khởi lên như vậy, ta thì phải thông :

          Bị đoạn diệt ở trong vị ấy,

          Xả tồn tại. Này A-Nan-Đa !

              Như người lực sĩ nào mà

       Có thể tự búng tay là dễ thôi !

          Như vậy thời là tốc độ động,

          Là mau chóng, là dễ dàng, nên

              Đối với cái gì khởi lên            

       Khả ý, bất khả ý trên, hay là

          Khả ý và bất khả ý ấy

          Và cả thảy đều đoạn diệt ngay

              Chỉ Xả tồn tại ở đây.

       Trong giới luật bậc Thánh, này A-Nan !   

          Vô thượng căn tu tập được gọi

          Với tiếng (nói) nhận thức do tai.

 

              Lại, nữa, A-Nan-Đa này !

       Hương do mũi ngửi, khởi ngay lên là

          Khả ý và khởi bất khả ý –

          Khả ý, bất khả ý khởi đi,

              Vị Tỷ Kheo ấy tuệ tri :

      ‘Những cái này khởi, thô vì hữu vi

          Nhưng cái ni an tịnh, thù diệu

          Tức là Xả, được hiểu mọi thì’.

              Cho nên dầu cho cái gì

       Khởi lên như vậy, ta thì phải thông : 

          Bị đoạn diệt ở trong vị ấy

          Xả tồn tại. Như những giọt mưa

              Chảy trượt đi mất, không chừa

       Không có đọng lại còn thừa ở sen

          Khi lá sen này đang chúc xuống,

          Nên tình huống như thế chính là

              Tốc độ, sự mau chóng, và

       Là sự dễ dãi cái mà khởi lên

          Khả ý hay như trên tả vậy,

          Chỉ còn Xả tồn tại ở đây.

              Trong giới luật bậc Thánh này

       Vô thượng căn tu tập đây gọi vầy.  

 

          A-Nan này ! Rồi lưỡi nếm vị,

          Thân cảm xúc, khả ý khởi lên

              Bất khả ý cũng khởi lên,

       Khả ý và bất khả liền khởi lên.

          Rồi Ý nhận thức liền các pháp

          Tất cả đều thuận hạp khởi lên,

              Khả ý, bất khả ý liền,

       Khả ý và bất khả liền khởi lên.

 

          Vị Tỷ Kheo nói trên suy nghĩ :  

         ‘Ồ ! Khả ý khởi lên nơi ta,

              Bất khả ý khởi nơi ta,

       Khả ý và bất khả mà khởi lên.

          Những cái này khởi lên, ập tới

          Bị thô bởi nó là hữu vi,

              Nhưng là an tịnh cái ni,

       Là thù diệu, tức Xả thì ở đây.

 

          A-Nan này ! Như người lực sĩ

          Tập luyện kỹ, mạnh mẽ tối đa

              Có thể dễ dàng nhổ ra

       Cục đàm vướng cổ, hay là người đây

          Có thể co cánh tay rất dễ,

          Và có thể duỗi cánh tay ra.

              Hay như nhỏ giọt hai, ba

       Giọt nước vào cái chậu mà chậu đây

          Bằng sắt dày đặt trên bếp nóng,

          Các giọt nước mau chóng tan nhanh

              Bị tiêu diệt, biến đi nhanh.

 

       Cũng vậy, như thế đạt thành trải qua

          Là tốc độ, cũng là mau lẹ

          Như vậy là sự dễ dàng khi

              Đối với đã khởi cái gì

       Khả ý, bất khả ý vì khởi ra

          Khả ý và bất khả ý khởi

          Đều diệt bởi ở trong vị này

              Chỉ Xả tồn tại ở đây,

       Trong giới luật bậc Thánh, này A-Nan !

          Gọi là vô thượng căn tu tập

          Với các pháp lục căn nhận ra.

 

              Như vậy, này A-Nan-Đa !

       Vô thượng căn tu tập qua các vì

          Giữ giới luật uy nghi bậc Thánh.

 

          Và thế nào chân chánh con đường

              Của vị hữu-học phải tường ?

       A-Nan ! Vị Tỷ Kheo thường thấy nên

          Mắt thấy sắc khởi lên khả ý,

          Bất khả ý cũng khởi, hay là

              Khả và bất khả ý mà

       Chúng đã phát khởi nơi ta như vầy,

          Nên vị này ưu não, tàm quý,

          Và ghét bỏ. Rồi vị Sư đây

              Sau khi tai nghe tiếng, hay

       Lưỡi nếm các vị, mũi này ngửi hương,

          Thân cảm xúc, ý thường nhận thức

          Các pháp vậy, lập tức khởi ra

              Khả, bất khả ý, và

       Đã từ nơi đã khởi ra đó là

          Khả ý và bất khả ý đó.

          Vì rằng có khả ý cùng là

              Bất khả ý cũng khởi ra,

       Khả và bất khả ý mà khởi ngay

          Nên vị này ưu não, ghét bỏ,

          Và tàm quý – đạo lộ là đây

              Của các vị hữu-học này.

 

       Thế nào là bậc Thánh đầy kiến, văn

          Mà các căn tu tập vô thượng ?

          Này A-Nan ! Trong hướng hành trì

              Sau khi mắt thấy sắc gì

       Khi tai đã nghe tiếng chi, đồng thì

          Mũi ngửi hương, lưỡi thì nếm vị,

          Thân cảm xúc, còn ý ở đây

              Nhận thức pháp. Tỷ Kheo này

       Khởi lên khả ý, khởi ngay lên liền

          Bất khả ý. Khởi lên khả ý

          Và bất khả ý. Vị Sư này

              Khởi lên ước muốn như vầy :

 

      ‘Mong rằng tôi an trú ngay tưởng gì

          Không yểm ly đối với sự vật,

          Yểm ly thật cụ thể chi’.

              Thời vị ấy trú tức thì

       Với tưởng vốn chẳng yểm ly như vầy.

          Nếu vị này khởi lên mong ước : 

 

         ‘Mong tôi được an trú tưởng gì

              Mà tưởng ấy thì yểm ly

       Với sự vật không yểm ly như vầy’.

          Thời ở đây vị ấy an trú

          Với tưởng yểm ly cụ túc này.

              Nếu vị ấy ước muốn vầy :

 

      ‘Mong rằng tôi an trú ngay tưởng gì 

          Không yểm ly đối với sự vật

          Yểm ly, sự vật chẳng yểm ly’.     

              Vị ấy an trú tức thì

       Với tưởng loại chẳng yểm ly như vầy.

          Nếu vị này khởi lên mong ước :

         ‘Mong tôi được an trú tưởng gì

              Mà nó lập tức yểm ly

       Với sự vật không yểm ly, cùng là

          Yểm ly’, mà ở đây vị ấy

          An trú lại với tưởng yểm ly.

 

              Nếu khởi ước muốn thế ni :

      ‘Mong tôi khi đã dứt đi cả là

          Yểm ly và không yểm ly, đạt

          An trú Xả, tỉnh giác, niệm chân

              Thời vị này đã đạt phần

       Chánh niệm, tỉnh giác, trú phần Xả đây.

 

          A-Nan này ! Ta đã đề cập

          Vô thượng căn tu tập các phần

              Trong giới luật bậc Thánh nhân,

       Đã giảng đạo lộ chánh chân hành trì

          Của các vì hữu học, đề cập

          Các căn đã tu tập Thánh uy.

 

              Này A-Nan-Đa ! Những gì

       Bậc Đạo Sư phải thực thi hàng đầu

          Vì từ mẫn, mong cầu hạnh phúc

          Cho đệ tử mọi lúc, thì Ta

              Đã làm với đệ tử Ta.

       Như vậy, này A-Nan-Đa ! Đây là

          Những gốc cây, đây là chỗ trống

          Hãy Thiền tư, chớ phóng dật nào,

              Chớ có hối hận về sau

       Đây là giáo giới thanh cao Ta truyền ”.

 

 

          Đức Thế Tôn an nhiên thuyết giảng

         ‘Căn tu tập’ viên mãn, sâu xa,

              Vị Tôn-giả A-Nan-Đa

       Hoan hỷ tín thọ Phật Đà kim ngôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

 

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 152 :  CĂN TU TẬP    –  INDRIYA-BHAVANA  Sutta  )

 

 

 

 

 

HOÀN TẤT

“ Thi hóa TRUNG BỘ KINH ”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7752)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8792)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2831)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4352)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2630)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7881)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12494)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8543)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567