Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

125. Kinh Điều Ngự Địa

19/05/202011:31(Xem: 7097)
125. Kinh Điều Ngự Địa

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


125. Kinh ĐIỀU NGỰ ĐỊA

( Dantabhùmi sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả      

          Trú Vương-Xá – Rá-Chá-Ga-Ha 

              Tinh Xá Vê-Lú-Va-Na 

      (Trúc Lâm Tinh Xá cũng là nơi đây)

          Gần nơi này nuôi nhiều sóc lạ

         (Ka-Lanh-Đá-Ka-Ní-Vá-Pa). 

 

              Có Chi-Va-Rá-Vá-Ta (1)

       Là Sa-di (2) đang trải qua tu trì 

          Trú mọi thì ở A-Ranh-Ná  (3)

          Một am thất được tả không xa.

 

              Vương-tử Cha-Dá-Sê-Na  (4)

       Trong khi tản bộ, ghé qua nơi này.

          Khi đến đây, hỏi thăm khách khí

          Với A-Chí-Rá-Va-Ta này  

             (Tức Tân Học Sa-Di đây)

       Ngồi xuống, hỏi Sa-Di ngay vấn đề :    

    _______________________________

 

(1) : Vị Sa-di tên Aciravata.

(2) : Sa-di ( Samanero ) :  là những vị tập sự xuất gia giữ 10 giới,  

    gồm 3 loại :- Khu ô Sa-di : sa-di đuổi quạ : từ 7 tuổi tới 13 tuổi.

       - Ứng  pháp Sa-di : từ 14 tuổi đến 19 tuổi .

       - Hình đồng Sa-di : các vị lớn tuổi vào tu, phải thọ giới Sa-di 

         một thời gian trước khi được thọ Cụ-túc-giới (Tỳ Kheo ).

        Còn các Ứng pháp Sa-di đến 20 tuổi, có đủ những điều kiện

        đúng Luật mới được thọ Tỳ-Kheo. 

(3) : Địa phương tên Aranna.           (4) : Vương-tử Jayasena.

 

 

    – “ Tôn-giả Ất-Ghi-Vê-Sa-Ná !

          Tôi từng đã có nghe như sau : 

             ‘Ở đây vị Tỷ Kheo nào

       Sống không phóng dật, dồi dào nhiệt tâm

          Và tinh cần, nhất tâm – sẽ chứng’.

          Thật tốt lành nếu những lời trên

              Được Tôn-giả thuyết pháp lên

       Như tôi đã học, nghe liền trước đây ”.

 

     – “ Vương-tử này ! Tôi không có thể

          Thuyết pháp để Vương-tử được nghe

              Như đã được học, được nghe

       Nếu tôi thuyết pháp, ngài nghe nhưng rồi

          Không hiểu lời mà tôi đã nói

          Làm cho tôi mệt mỏi, muộn phiền ”.

 

        – “ Tôn-giả ! Xin hãy tùy duyên

       Vì tôi, thuyết pháp về chuyên đề này.

          Rất có thể, tôi đây hiểu rõ

          Ý nghĩa lời nói đó của Sư ”.

 

        – “ Vương-tử ! Tôi thuyết khoan thư

       Như điều ngài học, nghe từ trước đây.

          Nếu như ngài có thể hiểu rõ

          Lời của tôi nói đó đủ đầy

              Là sự tốt đẹp, lành thay !

       Nếu ngài không hiểu lời này của tôi

          Xin chớ có hỏi tôi thêm mãi,

          Hãy dừng lại sự trạng của mình ”.

 

        – “ Tôn-giả xin hãy thuyết minh   

       Như đã nghe, học. Nếu sinh vấn đề

          Tôi không hiểu gì về điều đó

          Tôi không có hỏi thêm điều gì ”.

 

 

              Thế rồi Tân Học Sa-Di

       Thuyết giảng về những điều gì tự thân

          Đã được nghe, như phần học ấy.

          Nghe như vậy, Vương-tử thốt ra

              Với A-Chi-Rá-Va-Ta :

 

 – “ Sự việc không phải xảy ra như vầy,

          Trường hợp này không phải như vậy.

          Tỷ Kheo ấy tinh tấn, nhiệt tâm,

              Sống không phóng dật âm thầm

       Có thể chứng đắc nhất tâm an hòa ”. 

          Vị Cha-Dá-Sê-Na Vương-tử

          Nói về sự không phải điều này,

              Liền đứng dậy rồi đi ngay.

 

       A-Chi-Ra-Vá-Tá này sau khi

          Vị Vương-tử đã đi, nội nhật

          Liền đi đến hương thất Thế Tôn

              Thành kính đảnh lễ Thế Tôn,

       Một bên ngồi xuống, ôn tồn thưa qua

          Chuyện Vương-tử Cha-Da-Sê-Ná

          Cuộc đàm thoại kết quả không hay.

 

              Khi nghe Sa-di nói vầy

       Thế Tôn liền bảo vị đây từ hòa :    

 

     – “Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Như vậy 

          Nào có thấy lợi ích gì đây ?

              Cha-Dá-Sê-Na vị này

       Sống giữa các dục, tâm đầy đam mê,

          Thọ hưởng về các dục mọi lúc

          Tư tưởng dục nhai nghiến sớm chiều,

              Bị nhiệt não dục đốt thiêu

       Truy cầu tha thiết những điều dục đây…

          Mà có thể biết, hay là thấy.

          Hay kẻ ấy có thể chứng ngôi

              Quả vị chỉ có do nơi

       Ly dục, mới biết đồng thời thấy ra.

          Chỉ ly dục mới là đạt được,

          Ly dục mới chứng được quả này.

              Do đó, sự kiện như vầy

       Không thể xảy đến. Và này hãy so :

          Ví như giữa đám bò, voi, ngựa,

          Có hai con voi, ngựa hay bò

              Được khéo huấn luyện đủ trò.

       Hai con voi, ngựa hay bò khác đây

          Không khéo, hay điều phục, huấn luyện

          Con nghĩ sao về chuyện vừa rồi ?

              Hai con bò, ngựa hay voi

       Được khéo huấn luyện nay thời có chăng

          Đạt khả năng điều phục mọi lúc ?

          Có đạt đến điều-phục-địa không ? ”.

 

       – “ Thưa có, bạch đức Thế Tôn ! ”. 

 

 – “ Còn hai con khác thì không sẵn sàng,

          Không hoàn toàn được điều phục giỏi

          Không được loại huấn luyện khéo, hay

              Thì với hai con vật này

       Có thể thành tựu như vầy khả năng

          Có đạt chăng đến điều-phục-địa ? ”.

 

    – “ Thưa, đó chỉ là chuyện bịa, sai ngoa ”.

 

        – “ Này Ất-Ghi-Vết-Sa-Na !

       Cũng vậy, vương-tử Cha-Da-Sê-Nà

          Sống xa hoa giữa các dục ấy

          Bị tư tưởng dục ấy nghiến nhai

 

              Nhiệt não dục thiêu đốt hoài,

       Truy cầu tha thiết dục đây đêm ngày…

          Lại có thể biết hay thấy rõ,

          Quả vị có thể chứng đạt qua

              Sự kiện ấy không xảy ra.

 

       Này Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Hay là

          Như hòn núi không xa làng mạc,

          Không xa các thị trấn, cư dân.

              Rồi có hai người bạn thân

       Nắm tay rảo bước xa dần làng đây

          Trực chỉ ngay đến hòn núi nọ,

          Khi đến đó, một người trèo lên

              Đỉnh núi cao vót, chênh vênh,

       Người dưới chân núi ngó lên đỉnh này,

          Thấy người bạn đứng ngay đỉnh núi,

          Hỏi vọng lên : ‘Hòn núi cao vời

              Bạn đã thấy những gì rồi ?’.

 

  – ‘Này bạn ! Trên núi này tôi thấy là

          Các vườn hoa thật là khả ái,

          Các khu rừng với lại hồ ao,

              Đất bằng… khả ái làm sao !’.

 

       Không tin, người bạn nói mau như vầy :

      – ‘Không có sự kiện này đâu bạn !

          Trường hợp này chắc bạn nói chơi !

              Bạn đứng ở nơi cao vời

       Làm sao thấy được những nơi đẹp vầy ?’.

 

          Người bạn này lập tức leo xuống

          Nắm tay bạn và muốn bạn mình

              Trèo lên đỉnh núi để nhìn.

       Nghỉ thở vài chặng hành trình đăng sơn

 

          Khi đặt chơn đến đỉnh núi ấy

          Hỏi bạn : ‘Vậy bạn thấy hay chăng ?

              Khu rừng, vườn tược, đất bằng…

       Thảy đều khả ái muôn phần phải không ?’.

 

      – ‘Này bạn thân ! Vì không thấy rõ

          Bởi vì sườn núi đó khuất che

              Nên dù bạn nói cho nghe

       Mà tôi nghi ngại vấn đề nói ra’.

 

          Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Cũng vậy

          Vương-tử ấy (Cha-Dá-Sê-Na)

              Bị che khuất, bị mù lòa

       Bị chận, chướng ngại hay là bao vây

          Bởi vô-minh-uẩn này mọi lúc

          Vương-tử sống với dục mọi điều

              Và thọ hưởng các dục nhiều,

       Bị tư tưởng dục sớm chiều nghiến nhai,

          Nhiệt não dục đêm ngày thiêu cháy,

          Truy cầu mãi các dục thiết tha.

 

              Vương-tử Cha-Dá-Sê-Na 

       Lại có thể biết hay là thấy ra

          Hoặc có thể chứng qua quả vị

          Là điều chỉ ly dục đạt thôi,

              Việc ấy không thể có rồi !

 

       Nếu hai ví dụ này thời được con  

          Nói suốt thông để vương-tử rõ

          Thì vị đó tự nhiên tin con.

              Khi sự tin tưởng đả thông

       Sẽ hành động đúng lời con trình bày ”.

 

    – “ Nhưng bạch Ngài ! Làm sao thế được ! 

          Hai ví dụ này được con đây

              Nói ra cho vương-tử này

       Tự nhiên như trước chưa rày nghe qua

           Như Thế Tôn Phật Đà diễn tả ? ”.

 

      – “Ất-Ghi-Vết-Sa-Ná ! Như là

               Vua Sát-Đế-Lỵ vương-gia

       Đã có quán đảnh, bảo qua người nài :

      - ‘Tượng-sư này ! Hãy cỡi vương-tượng

          Đi vào rừng nhắm hướng có voi

              Khi thấy voi rừng thuộc nòi

       Hãy cột nó vào cổ voi chúa này’.

 

        - Hạ thần xin làm ngay chỉ thị’. 

 

          Rồi Ất-Ghí-Vết-Sa-Na này !

              Người Tượng-sư vâng lời đây

       Cỡi con vương-tượng vào ngay rừng già.

          Gặp voi rừng, ông ta tìm cách

          Bắt voi rừng, cột chặt nó vào

              Cổ của vương-tượng lớn cao.

       Voi chúa sau đó kéo mau voi rừng

          Ra khỏi rừng, đến nơi khoảng trống.

          Voi rừng vẫn hướng vọng về rừng,

              Còn sự tham luyến với rừng.

 

       Người Tượng-sư vốn đã từng-trải đây  

          Tâu vua : ‘Nay voi rừng bị bắt,

          Đã được dắt về chỗ thao trường,

              Thần xin đợi lịnh Đại-vương !’

 

   - ‘Tượng-sư ! Ông hãy dùng phương pháp nào

          Để điều phục làm sao voi đó

          Khiến cho nó quên lối sống rừng,

              Điều phục tâm tư núi rừng,                       

 

       Điều phục ưu não xa rừng núi kia,

          Khiến đoạn lìa nhớ rừng của nó

          Làm cho nó thích thú thôn làng,

              Làm cho quen thuộc, dễ dàng

       Sống với nếp sống mở mang của người’.

 

      - ‘Tâu Đại-vương ! Những lời chỉ thị

          Thần nhớ kỹ điều phải làm qua’.

 

              Này Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! 

       Tượng-sư đóng trụ thật là chắc, to

          Để dùng cho việc điều phục nó.

          Cột giây chắc vào cổ voi rừng,

              Lúc đầu voi cố vẫy vùng,

       Tượng-sư lão luyện bèn dùng cách sau :

          Vuốt ve và nói vào tai nó

          Lời nhẹ nhàng to nhỏ, đẹp tai

              Thân tình, thanh nhã, hòa hài,

       Động tâm, khiến nhiều người hay vui lòng,

          Khiến nhiều người cảm thông, hoan hỷ.

          Việc đối trị với cách thức này

              Voi rừng liền nghe, lóng tai,

       Trú tâm học hỏi nơi thầy Tượng-sư.

          Thấy voi như đã thuần tính khá

          Tượng-sư đã đem cỏ, nước ra

              Cho con voi rừng dùng qua.

 

       Này Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Thấy rằng

          Voi rừng bắt đầu ăn và uống,

          Tượng-sư nghĩ : ‘Nó sống rồi đây !’

              Lại dạy con voi rừng này

       Làm thêm động tác : Nhặt ngay vật cần

          Rồi đặt xuống, nhiều lần động tác

          Theo hiệu lệnh của bác Tượng-sư.

              Tiếp theo, voi ấy từ từ

       Đi lui, đi tới khoan thư theo lời,

          Voi ngồi xuống để rồi đứng dậy.

          Rồi lại dạy ‘bất động’ tiếp liền :

              Vòi voi buộc một cái khiên

       Một người cầm giáo ngồi trên cổ vầy,

          Nhiều người khác đứng vây quanh nó

          Tay cầm giáo. Tiếp đó người nài

              Cầm một ngọn dao cán dài

       Đứng ở phía trước, luyện voi về phần

          Đứng bất động, bốn chân của nó

          Đều không có di động day qua

              Không có di động tai, ngà,

       Vòi không động đậy trải qua thực hành.

          Huấn luyện để trở thành vương-tượng

          Mà vương-tượng được luyện dài lâu

              Có thể nhẫn chịu kiếm, đao,

       Chém, bắn, búa nện, chịu đau mọi đàng.

          Nó nhẫn chịu tiếng vang động lớn

          Của trống nhỏ, trống lớn, tù và.

              Như vàng ròng tẩy sạch qua

       Tỳ vết nhơ bẩn, xứng là tượng vương

          Để Vua thường sử dụng, sở hữu

          Một biểu tượng trân bửu, cao sang.

              Khi Vua ngự trên bành vàng

       Đặt trên lưng tượng, huy hoàng, uy nghi.

          Này Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Hiện

          Ở đời, bậc phương tiện độ sinh    

             Với mười tôn hiệu quang minh

       Người đời kính ngưỡng, thật tình tôn xưng :

          Bậc Trí tuệ, tâm chân diệu ngữ

          Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu,

              Phật, Thế Tôn, Thiên Nhân Sư,

       Chánh Đẳng Chánh Giác đại từ uy linh

          Vô Thượng Sĩ  hay Minh Hạnh Túc,

          Bậc Thiện Thệ, Ứng Cúng, Như Lai.

              Do sự chứng ngộ tự ngài

       Rồi lại tuyên thuyết, hoằng khai Pháp mầu

          Thuyết Sơ Thiện rồi sau Trung Thiện

          Thuyết Hậu Thiện, văn nghĩa đủ đầy,

              Truyền dạy Phạm hạnh từ đây

       Pháp thân thanh tịnh, bậc Thầy Nhân Thiên.

 

          Có gia trưởng trong miền thôn ấp

          Hoặc một người giai cấp tiện dân

              Duyên lành nghe pháp thậm thâm

       Sinh lòng ngưỡng mộ, kiếm tầm chân như.

          Tự suy nghĩ : ‘Đời như cát bụi

          Sống dẫy đầy trói buộc não phiền,

              Luân hồi sinh tử triền miên

       Đời sống xuất thế lụy phiền tránh xa.

          Ta nay phải xuất gia viên mãn

          Đời xuất gia phóng khoáng hư không

              Cuộc sống thế gian chất chồng

       Phạm hạnh thanh tịnh thật không dễ gìn’.

 

          Y trưởng dưỡng đức tin vững chắc

          Cạo râu tóc, thân đắp ca-sa

              Biệt gia quyến, bỏ cửa nhà

       Ba y một bát, xuất gia tu hành.

          Đây chính là tịnh thanh đệ tử

          Như voi được dẫn đến thao trường

              Còn tham ái, tức tương đương

       Năm dục công đức nhiễm vương Trời, người.

 

          Tiếp theo, thời dạy về Phạm hạnh

          Giữ oai nghi, tự tánh sáng lòa

              Giới bổn Pa-Tì-Mốc-Kha   (1)

       Thọ trì nghiêm mật, tránh xa điều tà.

 

          Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Sau đấy

          Như Lai dạy đệ tử ấy rằng :

             ‘Phải luôn chánh niệm, tinh cần

       Và luôn bảo hộ các căn thế nào ?

          Mắt thấy sắc nhưng nào giữ tướng

          Tướng chung, riêng chẳng nắm giữ gì

              Mắt không chế ngự tại chi

       Khiến bất thiện pháp ưu bi khởi vào

          Nên tham ái dâng trào đủ thứ

          Vị Tỷ Kheo chế ngự nguyên nhân

              Hộ trì tích cực nhãn căn

       Cũng như hộ trợ nhĩ căn cũng cần

          Tai nghe tiếng hay thân cảm xúc

          Mũi ngửi hương, nhận thức : ý căn

              Tỷ Kheo hộ trì các căn

       Nên hưởng lạc thọ, nội tâm tịnh hòa’.

 

          Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Tiếp đấy

          Như Lai dạy đệ tử phải thông :

    __________________________

 

 (1) : Tứ Thanh Tịnh Giới của vị Tỷ Kheo chân chánh :

- Patimokkha-samvarasìla : Biệt biệt Giải thoát Thu thúc giới .

- Indriyasamvarasìla : Giới luật liên quan đến thu thúc lục căn .

- Àjìvapàvisuddhisìla :Giới luật liên quan đến đời sống trong sạch.

- Paccayasannissitasìla : Giới luật liên quan đến việc sử dụng

 ‘Tứ vật dụng’: Vật thực, Y phục, Chỗ Ở và Thuốc ngừa bệnh .

 

 

             ‘Thức ăn khất thực no lòng

       Không để đùa giỡn, trong vòng đam mê.

          Không phải để chuyên về trang điểm

          Không để làm kiều diễm thân hình

              Chỉ mong thân này an bình

       Bảo dưỡng sống khỏe, trí minh tâm lành

          Để hỗ trợ thực hành phạm hạnh

          Thân khỏe mạnh, tinh tấn tu trì

              Diệt trừ cảm thọ cũ đi

       Các cảm thọ mới tức thì ngăn ngay

          Và ta sẽ không rày lầm lỗi

          An ổn bởi thọ dụng thức ăn’.

 

              Như Lai lại dạy tiếp rằng :

      ‘Kinh hành lui tới phải cần chú tâm

          Gột sạch tâm trí mình ra khỏi

          Chướng ngại pháp ở mọi thời kỳ,

              Trong khi đang ngồi hay đi

       Ban ngày hay cả vào thì ban đêm.

          Trong canh giữa ban đêm, nằm xuống

          Hông bên phải, thân tướng an tường

              Như dáng nằm sư tử vương,

       Chân phải trên trái, đêm trường nằm yên

          Tâm an nhiên, luôn tỉnh giác lấy

          Hướng niệm phải ngồi dậy đến kỳ.

              Canh cuối khi thức dậy, thì

       Dù ngồi thiền, đứng hay đi kinh hành 

          Phải gột sạch chẳng lành tâm trí

          Để không bị chướng ngại pháp nào.

 

              Ta lại huấn luyện nhằm vào      

       Cho Thánh đệ tử tiếp sau đó liền :

         ‘Này Tỷ Kheo ! Cần chuyên tỉnh giác

          Giữ chánh niệm , an lạc tự tâm

              Tỷ Kheo đi, đứng, ngồi, nằm

       Đều giữ tỉnh giác, trong tâm biết liền

          Khi tới, lui ; biết mình lui, tới

          Khi nhìn quanh, biết bởi mình làm

              Hay khi co duỗi tay chân

       Mặc y, đi bát  hay cần uống ăn

          Khi nhai, nuốt, nói năng : tỉnh giác

          Đại, tiểu tiện, nhổ khạc : biết mình

              Như vậy Tỷ Kheo tâm minh

       Chánh niệm tỉnh giác, trí tinh tâm hòa’.

 

          Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Sau đấy

          Khi Thánh đệ tử ấy tựu thành

              Chánh niệm tỉnh giác an lành

       Ta lại huấn luyện thật rành rẽ ngay :

         ‘Hãy đến, này Tỷ Kheo ! Mỗi vị

          Hãy lựa chọn vị trí lặng yên

              Như rừng tĩnh mịch, lâm viên,

       Gốc cây, khe núi hoặc liền tha ma.

 

          Thời ngọ thực đã qua, rửa bát

          Ngồi kiết già, an lạc, thẳng lưng

              An trú chánh niệm, lâng lâng

       Tham ái từ bỏ, thoát dần ái tham

          Bỏ sân hận, từ tâm thương xót

          Chúng hữu tình mỗi một cảnh riêng

              Từ bỏ hôn trầm, thụy miên

       Thoát ly khỏi chướng thụy miên, hôn trầm

          Giữ tịnh tâm, hướng về ánh sáng

          Cùng chánh niệm, tĩnh giác, tâm yên

              Gột rửa chúng, được an nhiên

       Từ bỏ trạo cử thì liền tịnh thân

          Hết nghi ngờ, phân vân lưỡng lự

          Gột rửa hết  trạo cử, hôn trầm

              Gột rửa tham ái, hận sân

        Vững tin thiện pháp, tinh cần hành thâm’.

          Sau khi diệt cả năm triền cái

         (Là các loại ô nhiễm tâm tư

              Làm yếu trí tuệ, làm hư)

       Vị ấy quán chiếu, công phu chuyên cần

          Sống quán thân trên thân, nhận rõ

          Quán thọ trên cảm thọ các điều,

              Quán tâm trên tâm sớm chiều,

       Quán pháp trên các pháp nhiều đổi thay.

          Luôn nhiệt tâm, đêm ngày tỉnh giác

          Chánh niệm, điều phục các ưu tham’.

 

              Ví như người nài thường làm : 

       Đóng một cọc lớn trung tâm thao trường

          Cột voi rừng để điều phục nó

          Bỏ nếp sống của nó ở rừng,

              Điều phục tâm tư núi rừng

       Để nó thích hạp sống cùng người ta.

 

          Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Tương tự

          Bốn Niệm Xứ lả những sợi dây

              Cột tâm tư, điều phục ngay

       Tâm, tính Cư-sĩ nhuốm dây thế trần.

          Điều phục dần ưu tư mệt trí

          Nhiệt não của Cư-sĩ, thế nhân

              Đạt chánh lý, chứng Niết-bàn.

 

       Rồi Như Lai dạy tiếp sang như vầy :

 

         ‘Này Tỷ Kheo ! Ở đây hãy trú

          Quán thân trên thân đủ mọi phần,

              Chớ có suy tư trên tầm

       Liên hệ thân đó, rồi thầm tiếp sau

          Trú quán thọ trên bao cảm thọ,

          Trú quán tâm vốn có trên tâm,

              Chớ có suy tư trên tầm

       Liên hệ cảm thọ và tâm hiện tiền.

          Hãy trú quán pháp trên các pháp,

          Chớ suy tư trên các tầm này

              Liên hệ đến pháp ở đây.

       Rồi vị ấy đã diệt ngay tứ, tầm

          Chứng và trú Thiền tâm Đệ Nhị

          Một trạng thái lạc hỷ, định sanh

              Không tầm không tứ an lành

       Với điều nội tĩnh nhất tâm đủ đầy.

 

          Rồi vị này ly hỷ trú xả  

          Là hành giả tỉnh giác nhất tâm

              Thân cảm sự lạc thọ thầm

      ‘Xả niệm lạc trú’ – Thánh nhân gọi vầy,

          Chứng, trú ngay Tam Thiền tự tại.

          Vị ấy lại xả lạc, khổ liền

              Diệt hỷ ưu thọ chướng duyên

       Chứng và an trú Tứ Thiền tinh hoa,

          Không khổ và không lạc, an định

          Cùng xả niệm thanh tịnh đạt thành

              Với tâm định tĩnh, tịnh thanh

       Không nhiễm, không phiền não, hành trải qua

          Nhu nhuyến và vững chắc, bình thản

          Hướng tâm đến túc-mạng-trí, thời

 

              Quá khứ – nhớ một, hai đời

       Năm chục, ba bốn trăm đời đã qua

          Một ngàn đời hay là hơn nữa

          Một trăm ngàn đời thuở lâu xa

              Hoại kiếp, thành kiếp trải qua

       Vị ấy nhớ lại như là mới đây.

          Tại nơi ấy, tên này ta có

          Thuộc giai cấp, giòng họ thế này

              Uống, ăn, thọ khổ, lạc  rày

       Tuổi thọ như thế, chết ngày ra sao

          Ta tái sinh, nhằm vào làng đó

          Có tên tuổi, giòng họ thế nào

              Cứ thế, nhớ lại bao đời

       Đại cương, chi tiết các thời xưa nay.

 

          Rồi vị này với tâm định tĩnh

          Trong sáng và thanh tịnh, nhu yên

              Không cấu nhiễm, không não phiền

       Vững chắc, bất động, an nhiên như vầy.      

          Tỷ Kheo này hướng tâm đến với

          Sinh tử trí, dẫn tới tuệ minh

              Xét về sinh tử chúng sinh

       Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy liền

          Vị ấy biết mối giềng Nghiệp quả

          Người hạ liệt, kẻ cả giàu sang

              Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn

       Đều do hạnh nghiệp trắng đen họ làm.

 

          Gieo ác hạnh về thân, khẩu, ý

          Hoặc phỉ báng các vị Thánh Hiền

              Người này thân hoại, tận duyên     

       Do nghiệp tà kiến, đọa liền súc sinh

          Các cõi dữ, như sinh địa ngục

          Hoặc đọa xứ, thằng thúc nạn tai.

              Còn bậc hiền giả, những ai

       Làm những thiện hạnh  ý và lời, thân

          Không phỉ báng Hiền nhân, Thánh hiển

          Tạo nghiệp lành, chánh kiến vô cùng

              Sau khi thân hoại mạng chung 

       Được sinh thiện thú, nhân trung, cõi trời.

 

          Do thiên nhãn, biết đời sống chết

          Người hạ liệt  hay kẻ giàu sang

              Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn

       Người này bất hạnh, kẻ bèn gặp may

          Do hạnh nghiệp kẻ này hành động

          Có kết quả chẳng giống nhau này.

              Luân hồi tùy nghiệp chuyển xoay

       Không ai tránh khỏi trả vay nghiệp này.  

 

          Rồi vị đây hướng tâm đến với    

          Lậu-tận-trí, dẫn tới biết rành

              Tứ Diệu Đế, biết ngọn ngành    

       Đây là sự Khổ, nguyên nhân đưa vào

          Đây Khổ Diệt, đường nào diệt khổ

          Biết như thật lậu hoặc loại này

              Nguyên nhân lậu hoặc là đây

       Diệt trừ lậu hoặc, biết ngay con đường.

 

          Nhờ hiểu biết, tận tường nhận thức

         Tâm vị ấy rất mực sáng trong

              Dục-lậu, hữu-lậu thoát xong

       Thoát vô-minh-lậu, khỏi vòng trói trăn

          Liền hiểu rõ : Tự thân giải thoát

          Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành

              Việc cần làm đã thi hành

       Sau đời hiện tại, Vô sanh hiển bày. 

 

          Tỷ Kheo hay kham nhẫn nóng, lạnh,

          Sự xúc chạm của gió, muỗi, ruồi,

              Mặt trời, bò sát các loài,

       Những lời la mắng, chưởi hoài nhiều phen

          Vị ấy đã sống quen nhẫn thọ

          Với những sự cảm thọ về thân

              Đau nhói, thống khổ muôn phần,

       Đau đớn kịch liệt toàn thân mọi chiều.

          Được gột sạch các điều uế nhiễm

          Tham, sân, si dứt điểm tinh tường,

              Vị ấy đáng được cúng dường

       Tôn trọng, cung kính và thường chắp tay

          Lễ vị này, ruộng phước cao cả.

 

          Ất-Ghi-Vết-Sa-Ná ! Như là   

              Một con vương-tượng tuổi già

       Không được điều phục, không qua luyện rèn

          Chết đi, bèn được gọi là chết

          Với cái chết không được tốt lành

              Không được điều phục, luyện rành.

 

     Những con vương tượng thuộc thành phần chung  

          Tuổi bậc trung & voi trẻ sung sức

          Không điều phục, không được dạy rành

              Chết đi, cũng chỉ mang danh

       Voi không điều phục, không thành tựu chi !

 

          Cũng vậy, vì Tỷ Kheo Trưởng Lão 

          Mà hoặc-lậu chưa diệt, chết đi

              Là Tỷ-Kheo & Tỷ-Kheo-Ni  

       Được gọi là chết trong thì dở dang,

          Chết không được hoàn toàn điều phục.

 

          Hoặc chết lúc trung niên & thanh niên     

              Gọi Tỷ Kheo trung & thanh niên

       Chết với lậu-hoặc triền miên chưa trừ

          Cái chết từ không được điều phục.

          Trái lại, lúc Trưởng-lão, trung niên

              Hoặc là Tỷ Kheo thanh niên

       Chết nhưng lậu-hoặc, chướng duyên đã trừ,

          Chết an như, điều phục uy dũng ! ”.

 

          Nghe Thế Tôn Ứng Cúng giảng qua

              Sư A-Chi-Rá-Va-Ta

       Hoan hỷ tín thọ Phật Đà kim ngôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*   *

 

( Chấm dứt Kinh số 125 :    ĐIỀU NGỰ ĐỊA   –

DANTABHÙMI  Sutta )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7753)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8792)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2831)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4352)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2630)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7883)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12494)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8543)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567