Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

141. Kinh Phân Biệt Sự Thật

19/05/202011:36(Xem: 8237)
141. Kinh Phân Biệt Sự Thật

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : honglacmai1@yahoo.com


141. Kinh  PHÂN BIỆT SỰ THẬT

( Saccavibhanga sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn trú tại

          Ba-La-Nại – Ba-Rá-Na-Si    (1)

             ‘Chư Thiên đọa xứ’ nơi mà

       Gọi I-Sí-Pá-Ta-Na, cũng là

          Lộc Uyển hay Mi-Ga-Đa-Dá.  (1)

 

          Rồi Phật gọi tất cả Tỷ Kheo :     

        – “ Hãy nghe, này các Tỷ Kheo !

       Chúng Tăng đều đáp vâng theo lời Ngài.

 

          Đức Thế Tôn nghiêm oai thuyết giảng : 

 

    – “ Như Lai giảng ‘Vô Thượng Pháp Luân’

              Được bậc tôn quý cõi trần

       Chánh Đẳng Chánh Giác chuyển vần hoằng khai

          Tại Vườn Nai (Lộc Uyển) tuần tự

          Chỗ Chư Tiên đọa xứ dã thôn.

              Không một Sa-môn, Bàn-môn,

       Chư Thiên, Ma, Phạm hay còn một ai   

          Ở đời này có thể chận lại

    ___________________________

 

     (1) : Xứ Ba-La-Nại ( Vàranasi hay Bàranasi ) xưa kia là nước

     Ca-Thi ( Kasi ). Thời cận đại có tên là Benares, nay là Bang

     Varanasi của nước Ấn Độ. Nơi đây có một Thánh tích Phật giáo

     trong Tứ Động Tâm, đó là Lộc Uyển (Vườn Nai) Isipatana (chỗ

     Chư Thiên đọa xứ) hay còn gọi là Migadaya, nơi Đức Phật 

     Chuyển Pháp Luân đầu tiên, thuyết về Tứ Diệu Đế, độ năm vị

     trong nhóm Kiều Trần Như ( Aññà Kondañña ).   

 

          Hay chuyển vận ngược lại, tức là

              Sự khai thị, tuyên thuyết – mà

       Kiến lập, phân biệt, mở ra rộng phần

          Để hiển lộ bốn Chân Thánh-đế.

          Sao là bốn ? Được kể thành phần

              Là Khổ Thánh-đế, rồi phần

       Khổ Tập Thánh-đế  (nguyên nhân khổ này) 

          Diệt Thánh-đế sâu dày được kể

          Đạo Thánh-đế, hành chứng đạo mầu.

 

              Vô thượng Pháp Luân cao sâu

       Được bậc Chánh Giác, đứng đầu Nhân Thiên

          Chuyển vận tại Chư Tiên đọa xứ,

          Không một ai – đơn cử như là

              Chư Thiên, Phạm Thiên, Chúa Ma

       Hoặc các Phạm-chí hay Sa-môn nào

          Không thể nào chận đứng chuyển vận,

          Hoặc chuyển vận ngược lại, tức là

              Sự khai thị, tuyên thuyết mà

       Kiến lập, phân biệt, mở ra rộng dần,

          Hiển lộ Chân Thánh-đế thượng đẳng.

 

          Chúng Tăng ! Hãy thân cận thiết tha 

              Phích-Khú Sa-Ri-Pút-Ta        

       Cùng Phích-Khú Mốc-Ga-La-Na này

          Gần gũi các vị đây để thấy  

          Các vị ấy là bậc xuất gia

              Hiền trí (tức Panh-Đi-Ta)         ( Pandita )

       Thường hay sách tấn các Sa-môn là

          Đồng Phạm-hạnh – như là sinh mẫu

          Là vô lậu Sa-Ri-Pút-Ta.

              Còn với Mốc-Ga-La-Na     

       Coi như dưỡng mẫu trải qua mọi thì.

          Các Tỷ Kheo ! Sa-Ri-Pút-Tá  (1)

          Hướng dẫn đến Sơ quả Dư-Lưu.

              Còn Mục Kiền Liên (2) Tỷ Khưu

       Hướng dẫn tối-thượng-nghĩa, ưu thắng nhiều.

 

          Các Tỷ Kheo ! Xá-Lợi-Phất đó 

          Có thể có khai thị, thuyết qua

              Thi thiết, kiến lập, rộng ra,

       Phân biệt hiển lộ thật là rộng sâu

          Bốn Thánh-đế thanh cao vừa kể ”.

 

          Thế Tôn nói như thế rồi thôi,

              Đứng dậy từ chỗ Ngài ngồi

       Đi vào hương thất ở nơi rừng này.

 

          Tại nơi đây, sau khi Giác Giả

          Đi không lâu, Tôn-giả Trí tài

              Là Xá-Lợi-Phất vị này

       Liền gọi Tăng Chúng nơi này, giảng ngay :

 

    – “ Chư Hiền này ! ‘Pháp luân tối thượng’

          Đã được bậc Vô lượng Trí Bi,

              Bậc Chánh Đẳng Giác, Toàn Tri,

       Chuyển bánh xe Pháp huyền vi, nhiệm mầu

          Khi Ngài vào Vườn Nai – Lộc Uyển

          Nơi có tiếng ‘Đọa xứ Chư Thiên’.

              Và ở đây, này Chư Hiền !

       Sao là Khổ Thánh Đế liền xảy ra ?

          Sanh là khổ, già là khổ đó,

   ______________________

 

(1) : Tôn-giả Sariputta – Xá-Lợi-Phất, vị Đại đệ tử của Phật, Trí

      tuệ đệ nhất.        (2) : Tôn-giả Mogganlàna – Mục-Kiền-Liên, 

     vị Đại đệ tử Phật, Thần thông đệ nhất.  

 

          Bệnh & chết khổ, ưu, não, sầu, bi,

              Cũng gọi là Khổ cần tri,

       Tóm lại, năm thủ-uẩn thì khổ đau.

      *  Này Chư Hiền ! Thế nào Sanh vậy ?

          Chúng ta thấy mỗi hạng chúng sanh

              Giới loại, xuất sản, xuất sanh,

       Tái sanh của chúng, xuất thành ở đây

          Xuất hiện đây các uẩn, hoạch đắc

          Các căn chất. Chư Hiền-giả này !

              Gọi đó là ‘sanh’ như vầy.

 

 *  ‘Già’ là sao vậy ? Hàng ngày chúng sinh 

          Mỗi mỗi hạng trong từng giới loại

          Sự niên lão, biến hoại, yếu dần

              Rụng răng, tóc bạc, da nhăn

       Tuổi thọ rút ngắn, các căn suy tàn,

          Hiện tượng chỉ rõ ràng già cả.

 

      *  Chư Hiền-giả ! Sự ‘chết’ ra sao ?

              Mỗi mỗi hạng chúng sanh nào

       Trong từng giới loại, trước sau cũng đều

          Bị cuốn theo sự chết, tạ thế,

          Sự từ trần, thân thể hoại vong,

              Tắt thở, bất động, tử vong

       Các uẩn đã tận diệt trong thân này.

          Vất bỏ ngay tử thi hủy hoại,

          Chư Hiền ! Gọi sự ‘chết’ là đây. 

 

          *  Còn thế nào là ‘sầu’ vầy ?

       Những tai nạn với những ai gặp này,

          Với những ai cảm thọ đau khổ

          Đau khổ này, đau khổ khác sau,

              Sự sầu người ấy cảm mau,

       Được gọi sự ấy là sầu ở đây.

 

          Chư Hiền này ! ‘Bi’ là sao vậy ?

          Với những ai gặp phải nạn tai

              Hay cảm thọ đau khổ này

       Hay sự đau khổ khác vầy, ai bi

          Sự than van, sự bi thảm mãi

          Sự thống thiết. Như vậy là ‘bi’.

 

          *  Này Chư Hiền ! ‘Khổ’ là chi ? 

       Là sự đau khổ thân ni, úa xàu

          Sự khổ đau do thân cảm thọ,

          Không sảng khoái cảm thọ của thân,

              Như vầy là ‘khổ’ thuộc phần.

 

   *  Sao là ‘ưu’ ! Chư Hiền cần hiểu mau

          Sự khổ đau về tâm hiện có,

          Đau khổ do cảm thọ của tâm,

              Như vậy là ‘ưu’ âm thầm.

 

   *  Thế nào là ‘não’ ? Gặp nhằm nạn tai

          Tai nạn này hay tai nạn khác,

          Cảm thọ khổ này & khác mọi thì,

              Sự áo não, sự ai bi,

       Thất vọng, tuyệt vọng níu trì người đây

          Những điều này gọi là ‘não’ tất. 

 

      *  Sao là ‘cầu bất đắc khổ’ vầy ?

              Này Chư Hiền ! Chúng sinh đây

       Bị sanh chi phối, khởi ngay mong cầu :

         ‘Mong khỏi bị sanh nào chi phối,

          Mong ta khỏi phải đi thác sanh’,

              Mong cầu ấy không tựu thành

      ‘Cầu bất đắc khổ’ là danh tự vầy.

          Chư Hiền này ! Chúng sinh mỗi mỗi   

          Già, bệnh, chết – chi phối mọi thì

              Bị ưu, khổ, não, sầu, bi,

       Cũng đều chi phối, không chi thoát nàn.       

         ‘Mong cầu rằng ta thoát khỏi hết

          Già, bệnh, chết, ưu, não, ai bi,

              Khổ, sầu chi phối mọi thì,

       Mong cầu không được điều chi tựu thành

          Gọi đích danh ‘cầu bất đắc khổ’.

 

          Tóm lại, năm uẩn khổ đó là :

              Sắc & thọ & tưởng-thủ-uẩn, và

       Hành & thức-thủ-uẩn – trải qua khổ liền.

          Này Chư Hiền ! Khổ Tập Thánh-đế

          Thế nào để hiểu biết rõ rành

              Sự tham ái khiến tái sanh

       Câu hữu với hỷ, tham – sanh tìm cầu,

          Hỷ lạc nào chỗ này, chỗ khác

          Như dục & hữu & vô-hữu-ái này

              Khổ Tập Thánh-đế là đây.

 

       Khổ Diệt Thánh-đế hiểu ngay là gì ?

          Sự diệt tận không vì luyến tiếc

          Tham ái ấy, sự việc xả ly

              Khí xả, giải thoát tức thì

       Sự vô nhiễm tham ái ni. Như vầy  

          Gọi điều này : Khổ Diệt Thánh-đế.

 

          Còn Khổ Diệt Đạo Đế là gì ?  

              Đó là Thánh-đạo tám chi :  

       Chánh-tri-kiến, Chánh-tư-duy – cùng là

          Chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng,

          Chánh-tinh-tấn, chánh niệm, định chân.

 

              Chư Hiền ! Thế nào là phần

  *  Chánh tri kiến ấy ? Phải cần hiểu qua

          Tri kiến về Khổ và khổ Tập,

          Tri kiến gấp Diệt & Đạo cả hai

              Gọi là Chánh tri kiến vầy.

   *  Chánh-tư-duy ấy ở đây là gì ?

          Là tư duy ly dục, bất hại,

          Về vô sân, tự tại hòa hài.

 

          *  Thế nào là chánh-ngữ này ?

       Tự chế, không nói láo hay những lời

          Nói hai lưỡi, nói lời ác khẩu,

          Không nói ẩu phù phiếm, ba hoa 

              Như vậy chánh ngữ gọi là.

 

   *  Sao là chánh-nghiệp ? Trải qua mọi thời

          Không sát sinh, xa rời tà hạnh,

          Không trộm cướp – là chánh nghiệp đây.

 

          *  Thế nào là chánh mạng vầy ? 

       Vị Thánh đệ tử chẳng lay tinh cần

          Từ bỏ hẳn những phần tà mạng,

          Sinh sống bằng chánh mạng thẳng ngay

              Gọi là chánh-mạng điều này.

 

   *  Còn chánh-tinh-tấn ở đây thế nào ?

          Này Chư Hiền ! Đối đầu các ác,

      –  Bất thiện pháp này, khác chưa sanh

              Khởi ý muốn không cho sanh

       Với sự nỗ lực, tinh cần, quyết tâm

          Và trì chí. Còn nhằm điều khác

      –  Bất thiện pháp, các ác đã sanh

              Khởi ý muốn trừ diệt nhanh.

   –  Với các thiện pháp an lành chưa sanh

          Khởi ý muốn khiến sanh khởi tới.

      –  Các thiện pháp đã khởi sanh rồi

              Khởi lên ý muốn tức thời

       Khiến cho an trú, không dời đổi chi,  

          Không băng hoại, mọi thì phát triển,

          Tăng trưởng thiện viên mãn. Vị này

              Nỗ lực, tinh tấn chẳng lay

       Quyết tâm, trì chí đêm ngày cần chuyên.

 

          Này Chư Hiền ! Như vậy ắt hẳn   

          Chánh tinh tấn để gọi điều đây.

 

          *  Thế nào là chánh niệm vầy ?

       Chư Hiền ! Vị Tỷ Kheo đây tinh cần

          Sống quán thân trên thân, tỉnh giác

          Nhiệt tâm, chế ngự các tham ưu

              Ở đời (như chận bộc lưu)

       Quán thọ trên các thọ, lưu tâm nhiều.

          Quán tâm đều trên tâm. Quán pháp

          Trên các pháp, tỉnh giác, nhiệt tâm

              Để chế ngự các ưu tham,

       Chư Hiền ! Chánh niệm là làm như trên.

 

      *  Thế nào là gọi tên ‘chánh định’ ?  

          Vị Tỷ Kheo thanh tịnh an nhiên

              Ly dục, ly ác pháp liền

       Chứng và an trú Sơ Thiền (đầu tiên)

          Một trạng thái đi liền hỷ lạc

          Ly dục sanh với các tứ, tầm.

              Tiếp đó diệt tứ, diệt tầm

       Chứng, trú Đệ nhị Thiền tâm an lành

          Trạng thái do định sanh hỷ lạc

          Không tầm, tứ  – nội tĩnh nhất tâm

              Ly hỷ trú xả âm thầm

       Chánh niệm, tỉnh giác thì thân cảm liền

          Sự lạc thọ, Thánh hiền gọi đủ

          Là ‘xả niệm lạc trú’, tâm yên        

              Chứng, trú vào Đệ tam Thiền.

       Xả lạc, xả khổ, diệt liền hỷ ưu

          Vị Tỳ Khưu Tứ Thiền chứng, trú

          Không khổ & lạc, không giữ niệm nào, 

              Như vậy chánh định đạt vào,

       Khổ Diệt Đạo Đế thanh cao là vầy.

          Vô thượng Pháp luân đây do bậc

          Thế Tôn, Phật, Ứng Cúng, Toàn Tri

              Chánh Đẳng Chánh Giác, sơ thì

       Chuyển tại Lộc Uyển, diệu vi nhiệm huyền

          Nơi được gọi ‘Chư Thiên đọa xứ’,

          Không một ai – đơn cử như là

              Chư Thiên, Phạm Thiên, Chúa Ma

       Hoặc các Phạm-chí hay Sa-môn nào

          Không thể nào chận đứng chuyển vận,

          Hoặc chuyển vận ngược lại, tức là

              Sự khai thị, tuyên thuyết mà

       Kiến lập, phân biệt, mở ra rộng dần,

          Hiển lộ Chân Thánh-đế như thật ”.

 

          Nghe vị Xá-Lợi-Phất thuyết ra

              Giảng rộng giáo nghĩa sâu xa

       Chư Tăng hoan hỷ tin và vâng theo ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

* *  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 141 :  PHÂN BIỆT về SỰ THẬT  –  SACCAVIBHANGA  Sutta  )  

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 7754)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 8802)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 2832)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 4354)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 2631)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 7885)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 2871)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 12495)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 2757)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 8547)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567