Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

45. Tiểu Kinh Pháp Hàn

19/05/202010:21(Xem: 11208)
45. Tiểu Kinh Pháp Hàn

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



45. Tiểu Kinh PHÁP HÀNH
( Cùladhammasamàdàna s.)
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, đức Thế Tôn Thiện Thệ      
          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ  trú qua
              Tinh Xá Chê-Tá-Va-Na  (1)
       A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka (1) cúng dường
        ( Cấp-Cô-Độc gọi thường như thế ).
 
          Đấng Thiện Thệ gọi các Tỷ Kheo :
 
        – “ Hãy tác ý, các Tỷ Kheo ! ”.
       Tất cả Phích-Khú (2) ấy đều vâng theo.
 
    – “ Các Tỷ Kheo ! Pháp hành bốn loại
          Sao là bốn ?  Có loại pháp hành
          -  Hiện tại an lạc thấy rành
       Tương lai khổ báo sẵn dành cho y.
       -  Có pháp hành ở thì hiện tại
          Đau khổ, tương lai lại khổ đau.
           -  Có pháp hành hiện khổ đau
       Quả báo an lạc về sau sẵn dành.
       -  Có pháp hành hiện nay an lạc
Tương lai cũng an lạc, tốt lành.
 
        * “ Thế nào là loại pháp hành   
       Hiện tại lạc, tương lai thành khổ đau ”?
     ____________________________
( ): Kỳ Viên Tinh Xá – Jetavanavihàra ( tại Thành Xá-Vệ -Savatthi)
      do Trưởng-giả Cấp-Cô- Độc – Anathapindika dâng cúng .
(2) :  Bhikkhu – được phiên âm là Tỷ Kheo hay Tỳ Khưu .  
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 45 :  PHÁP HÀNH   *MLH  – 116
 
          Các Tỷ Kheo ! Nơi nào sở dĩ  
          Một số vị Sa-môn thuyết ra,
              Hoặc có sở kiến như là :
      ‘Không có tội lỗi trong tà dục đây’.
 
          Những vị này đắm trong các dục
          Cứ liên tục hoan lạc mê man
              Với các cô gái lang thang
       Tóc quăn, sắc đẹp, điểm trang mỹ miều.
          Họ nói liều : ‘Sao các Tôn-giả
          Bà-la-môn và cả Sa-môn
              Thấy sự sợ hãi dập dồn
      Tương lai các dục héo mòn’. Hoặc như
          Nói đến sự đoạn trừ các dục,
          Nên hiểu biết về dục như vầy.
              Họ nghĩ rằng : ‘Khoái lạc thay !
       Sự xúc chạm với bàn tay các nàng
          Da có lông mịn màng trắng bóc,
          Thật trẻ đẹp, làn tóc mượt mà’.
 
               Sau khi họ đã trải qua
       Đắm trong các dục, rồi đà mạng chung
          Phải đọa sanh khốn cùng cõi dữ
          Nơi ác thú, địa ngục sâu dày
              Ở đây, họ cảm thọ ngay
       Cảm giác thống khổ, đọa đày khổ đau.
          Họ liền nói như sau : ‘Nghĩ kỹ
          Các Sa-môn, Phạm-chí các ngài
              Thấy sự sợ hãi tương lai
       Của các dục, nói phải ngay diệt liền,
  Hoặc nêu lên hiểu biết về dục.
          Nhưng chúng ta do dục làm nhân
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 45 :  PHÁP HÀNH   *MLH  – 117
 
              Dục làm duyên, cảm thọ phần
       Cảm giác khốc liệt vô ngần khổ đau’.           
          Các Tỷ Kheo ! Nói vào ví dụ
          Cuối tháng hạ, vào vụ nóng đều
              Một bẹ hạt giống dây leo
       Nứt ra, một hạt rơi vèo xuống ngay
          Dưới gốc cây Sa-La ẩn trú.
          Các Phích-Khú ! Các vị thọ thần
              Trên cây Sa-La ẩn thân
       Run rẩy, hoảng hốt, sợ nhân giống này
        ( Sẽ phát triển, các dây chằng chịt
          Bám vào thân làm chết Sa-la )
 
              Bạn bè, thân quyến ruột rà
       Của thọ thần ấy, như là thần cây,
          Thần vườn hay thần rừng, dược thảo,
          Hội họp lại rồi bảo thần cây
              Để an ủi : ‘Tôn-giả này !
       Chớ sợ hãi, hạt giống đây còn tùy :
          Bị khổng tước nuốt đi, mai một
          Bị nai ăn, lửa đốt tức thì,
              Bị người làm rừng nhặt đi
       Bị mối ăn ; không cách chi nẩy mầm’.
 
          Nhưng âm thầm diễn ra trái ngược
          Chim khổng tước đã không nuốt phăng,
              Lửa không đốt, nai không ăn,
       Người không nhặt, mối không ăn hạt này.
           Được mưa lớn, nẩy ngay mầm giống
           Thành dây leo, bám sống cây trồng
               Dây leo mềm mại, có lông
Bám Sa-la ấy chặt không thể rời.
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 45 :  PHÁP HÀNH   *MLH  – 118
 
          Thọ thần nơi cây Sa-la ấy 
          Lại cảm thấy thích thú, hân hoan
              Khi dây leo mềm mơn man
       Suy nghĩ : ‘Không hiểu các hàng thần cây 
          Thân hữu hay bà con huyết thống
          Hội họp lại, chủ động nói ra
              An ủi ta ; giả thuyết là
       Hạt giống có thể hoại qua, như là :
          Chim, nai ăn hay là lửa đốt,
          Bị thui chột không thể nẩy mầm,
        Loài mối đục ăn âm thầm…
       Toàn chuyện đáng sợ, sóng ngầm hãi kinh.
          Nhưng tự mình cảm giác xúc chạm
          Dây leo bám, khoái lạc vô cùng,
              Dây leo mềm mại, trẻ trung
       Có lông tơ chạm quấn xung quanh mình’.
 
          Một thời gian, tình hình diễn tiến
          Khi dây leo phát triển, bao trùm
              Làm thành tàn che lùm sùm
       Ở dưới phát triển thành lùm bụi ra.
          Các cành cây Sa-la bị phủ
Bị bóp nghẹt, thúc thủ chết dần.
              Lúc ấy các vị thọ thần
       Sa-la thường trú, nhớ lần trước đây :
          Do không thể thấy ngay hiểm họa
          Nhân hạt giống, kết quả dây leo
              Sống gửi, Sa-la bám đeo
       Hại cây chết, lại hại theo thọ thần.
          Nay chúng ta muôn phần thống khổ
          Rất khốc liệt, không chỗ dựa theo’.
 
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 45 :  PHÁP HÀNH   *MLH  – 119
 
              Cũng vậy, này các Tỷ Kheo !
       Sa-môn, Phạm-chí nào đeo bám vào
          Với sở kiến biết bao lầm lạc :
         ‘Không tội lỗi trong các dục này’
              Đắm mình trong các dục đây
       Say mê, khoái lạc đêm ngày truy hoan
          Với những gái lang thang tóc quắn
   Hoan lạc và mê mẩn khôn cùng.
              Đến khi thân hoại mạng chung
       Đọa sinh cõi dữ muôn trùng khổ đau.
          Các Tỷ Kheo ! Được mau gọi đó
         ‘Pháp hành có hiện tại lạc an,
              Tương lai quả khổ vô vàn’.
 
 * “ Pháp hành nào hiện tại đang khổ đầy
          Và quả báo tương lai cũng khổ ”?
          Các Tỷ Kheo ! Đã có những ngưởi
              Thực hành cách thức mọi thời
       Những phương khổ hạnh khác đời như sau :
 
          Sống lõa thể với bao phóng túng
          Các lễ nghi họ cũng bỏ trôi
              Hoặc cách đứng ăn không ngồi
       Đứng đại tiểu tiện, ăn rồi liếm tay
          Đi khất thực, đứng ngay chẳng bước
          Không nhận thức ăn trước khi đi
              Không nhận thức ăn riêng chi
       Mời ăn không nhận, sợ vì dành riêng
          Hai người đang hiện tiền ăn uống
          Một người cho không muốn nhận quà
              Không nhận từ những đàn bà
       Đang cho con bú hoặc là có thai
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 45 :  PHÁP HÀNH   *MLH  –120
 
          Sợ đứa trẻ thiệt thòi dinh dưỡng
          Không nhận phần từ hướng đi quyên
              Khi có nạn đói trong miền
       Sợ rằng xén bớt phần tuyền nạn nhân     
          Không nhận, sợ mất phần gia súc
          Khi chó, mèo… đang chực thức ăn
              Không ăn cá, thịt  lộn chen
       Không uống rượu nấu, rượu men sa đà
          Chỉ nhận ăn mỗi nhà một miếng
         Hoặc hai nhà hai miếng, dùng qua
              Hoặc nhận ăn tại bảy nhà
       Chỉ ăn bảy miếng cho qua đói lòng
          Hoặc nuôi sống chỉ mong một bát
          Hoặc hai bát… bảy bát thí phần
              Chỉ ăn mỗi ngày một lần
       Hai ngày một bữa, một tuần mới ăn
          Hoặc vị ấy tinh cần tiết chế
    Nửa tháng lệ một bữa ăn qua.
 
              Hoặc họ thực hành trải qua
       Những phương khổ hạnh thực là tối đa :
          Thức ăn họ chỉ là cỏ lúa
          Ăn hạt cải, lúa tắc, bột vừng
              Ăn gạo xấu, ăn trấu dừng
       Ăn nước bột gạo, măng rừng, rễ cây
          Ăn phân bò, trái cây rụng xuống
          Ăn da vụn, ăn cỏ qua ngày
              Vị ấy mặc áo thô gai
       Hoặc vải liệm xác ở ngoài tha ma
          Ti-ta-ca vỏ cây làm áo
          Da sơn dương, phấn tảo mặc thường,
 
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 45 :  PHÁP HÀNH   *MLH  – 121
 
              Bện bằng nhiều mảnh sơn dương
       Hoặc áo bằng cỏ cát tường kết chung
          Áo vỏ cây, áo từng miếng gỗ
          Áo tóc bện gia cố thành mền                 
              Đuôi ngựa bện thành áo bền
       Không cạo râu tóc, nhổ liền tóc râu
          Hạnh không ngồi, bao lâu vẫn đứng
          Ngồi chò hỏ, giữ vững kiểu này
              Thường nằm ngủ trên đống gai
       Bạ đâu nằm đó, người đầy bụi dơ
          Ngủ ngoài trời, vật vờ nằm đất
          Ăn uế vật, nước tiểu trâu bò
              Ăn phân bò, ăn đất tro
       Nước lạnh không uống, tắm cho ba lần
          Xuống dưới nước đầm thân tắm gội
          Mong sạch tội, để được khoan dung.
              Sau khi thân hoại mạng chung
       Đọa sinh cõi dữ muôn trùng khổ đau.
 
          Các Tỷ Kheo ! Thuộc vào loại đó
          Pháp hành có hiện tại khổ đau
     Tương lai quả cũng khổ đau.
 
 * “ Trong hiện tại, pháp hành nào khổ đau   
          Tương lai sau quả báo an lạc ”? 
          Các Tỷ Kheo ! Mặt khác nói qua :
              Có người tự tánh sinh ra
       Quá nặng tham ái hoặc là hận sân,
          Hoặc quá nặng về phần si ám
          Cảm thọ luôn đeo bám khư khư
              Cảm giác khổ& ưu ; do từ
       Tham ái, sân hận hoặc từ si mê
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 45 :  PHÁP HÀNH   *MLH  – 122
 
          Với khổ & ưu mọi bề như thế
          Với mặt để nước mắt tuôn tràn
              Những người ấy luôn khóc than
       Nhưng rồi suy gẫm, tìm đàng từ ly,
          Hành phạm hạnh, mọi thì trong sạch
          Sống thanh bạch ; sau đó mạng chung
              Được sinh thiện thú, Thiên cung
       Hoặc tái sinh lại, vô cùng thảnh thơi.
          Là pháp hành hiện thời khổ não
 Nhưng quả báo an lạc tương lai.
 
              Này các Tỷ Kheo ! Lành thay !   
 * “ Pháp hành hiện lạc, tương lai an lành ”.
          Có những người khi sanh có sẵn
          Tự tánh không quá nặng tham, sân
              Không quá nặng si mê trần
       Không luôn cảm thọ những phần trải qua
          Cảm giác là khổ & ưu, do bởi  
          Tham, sân hận và bởi si mê
              Vị ấy ly dục hướng về,
       Các pháp bất thiện nhất tề xả ly,
          Chứng tức thì, trú Thiền thứ nhất
          Trạng thái thật hỷ lạc âm thầm
              Do ly dục ; có tứ, tầm,
 
       Rồi vị Phích-Khú diệt tầm, tứ đây,
          Chứng, trú ngay Nhị Thiền vô ngại
          Một trạng thái hỷ do định sanh
              Không tầm không tứ, tịnh thanh
       Và nội tĩnh nhất tâm – danh như vầy.
          Rồi vị này ly hỷ trú xả
          Chánh niệm tỉnh giác, quá an nhiên
Trung Bộ (Tập 2) Tiểu Kinh 45 :  PHÁP HÀNH   *MLH  –123
 
              Thì thân cảm lạc thọ liền
      ‘Xả niệm lạc trú’ – Thánh hiền gọi tên,
Chứng, trú nên Tam Thiền tự tại.
 
          Vị ấy lại xả lạc & khổ này
              Diệt hỷ ưu, thọ trước đây
       Chứng, an trú Tứ Thiền ngay chín muồi,
          Không khổ & vui, xả niệm thanh tịnh. 
 
          Và nhất định sau khi mạng chung
              Được sinh thiện thú, Thiên cung
       Hoặc tái sinh lại, vô cùng sướng thay !
          Các Tỷ Kheo ! Như vầy được gọi
         ‘Pháp hành hiện có mọi lạc an,
              Tương lai cũng sẽ lạc an’.
       Pháp hành bốn loại rõ ràng là đây ”.
 
          Nghe Thế Tôn trình bày viên mãn
          Thuyết giảng pháp trong sáng rỡ ràng,
              Chư Tỷ Kheo trong đạo tràng
       Hoan hỷ tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
 
 
 
*
*     *
 
 
(  Chấm dứt  Kinh số 45  :  Tiểu Kinh PHÁP HÀNH
CÙLADHAMMASAMÀDÀNA   Sutta  )
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2012(Xem: 5339)
法住天寒極地空花如雪鎖禪扃生死遙程幾許夢回故里 雲行色没浮漚暮影凝烟参晚课唄吟長夜有時聲斷洪洲 Âm: Pháp Trụ thiên hàn cực địa, không hoa như tuyết tỏa thiền quynh, sinh tử diêu trình, kỷ hứa mộng hồi cố lý. Vân hành sắc một phù âu, mộ ảnh ngưng yên tham vãn khóa, bái ngâm trường dạ, hữu thời thanh đoạn hồng châu Ôn dịch nghĩa: Cực thiên Bắc, tuyết dồn lữ thứ, sắc không muôn dặm hoa vàng, heo hút đường về, non nước bốn nghìn năm soi nguồn đạo PHÁP Tận hồng châu, chuông lắng đồi thông, bào ảnh mấy trùng sương đẫm, mênh mông sóng cuộn, dòng đời quanh chín khúc rọi bóng phù VÂN
01/10/2012(Xem: 4456)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3508)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4220)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 11420)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 11326)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3277)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5358)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3564)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3655)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]