Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Kinh Sợ Hãi Khiếp Đảm

18/05/202019:50(Xem: 10417)
04. Kinh Sợ Hãi Khiếp Đảm

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



4.Kinh SỢ HÃI KHIẾP ĐẢM

( Bhayabherava sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

Một thời, Đức Thế Tôn an trú

Kỳ-Viên-Tự , Chê-Tá-Va-Na  (1)

              A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka  (2)

       Tức Cấp-Cô-Độc  tín-gia cúng dường .

          Vốn tôn kính Pháp Vương Đại Trí

          Nên Phạm-chí Cha-Nút-Sô-Ni  (3)

Đến viếng Đấng Chánh Biến Tri

       Nói lời chào hỏi, rồi thì xưng tên

Đoạn ông ta một bên ngồi xuống

          Thưa với đức VôThượng Phật Đà :

 

           “ Bạch Tôn-giả Gô-Ta-Ma !

       Nhiều thiện-nam-tử thiết tha, nhiệt tình

          Luôn tin tưởng trí minh Tôn-giả

          Biệt gia đình vàđã xuất gia

Đối với những vị nói qua

       Ngài là lãnh đạo tài ba, vẹn toàn

          Giúp ích họ muôn vàn như thế

          Và khích lệ sách tấn tu hành        

              Họ cũng chấp nhận tâm thành

       Tuân theo quan điểm tịnh thanh của Ngài ”.

    _______________________________

 

(1)&(2) : Xem chú thích ở trang đầu Kinh “Tất cả các Lậu-hoặc”.

      (3) : Bàn-môn hay Phạm-chí tức là Bà-La-Môn . Ở đây là vị

             Bà-la-môn có tên Janussoni .

Trung Bộ (Tập 1) Kinh 04 : SỢ HÃI KHIẾP ĐẢM  * MLH – 042

 

     – “ Này Bàn-môn ! Điều này đúng vậy.

          Thiện-nam-tử từ bởi nhiều nhà

              Vì lòng tin tưởng nơi Ta

       Gia đình dứt bỏ, xuất gia tu hành

          Sống độc cư, an lành, thanh tịnh

Đối với họ, Ta chính là người

              Lãnh đạo, giúp ích mọi thời

       Sách tấn, khích lệ trong đời xuất gia.

          Theo quan điểm của Ta, như thị

          Họ hoan hỷ chấp nhận tuân hành ”.

 

        – “ Bạch Ngài ! Chốn vắng rừng xanh

Âm u tịch mịch dễ sanh nản lòng

          Khó kham nhẫn ở trong trú xứ

          Vị Phích-Khú khó thể hành trì

              Khó khăn đời sống viễn ly

       Thật khó thưởng thức sống vìđộc cư.

          Cảnh rừng núi âm u muôn dạng

          Làm rối loạn tâm trí vị này

              Khi chưa chứng Thiền-định đây

 (Đểđược tự tại, tâm đầy lạc an) ”.

 

    – “ Này Bàn-môn ! Hoàn toàn đúng vậy

          Tỷ Kheo ấy thật khó nhẫn kham

Ở những trú xứ xa xăm

       Hay chốn hoang vắng sơn lâm rậm rì

          Với đời sống viễn ly, khó thực !

          Khó thưởng thức đời sống độc cư

              Ta nghĩ rừng núi âm u

       Sẽ làm rối loạn đường tu vị này

          Tỷ Kheo đây nếu chưa chứng đắc

          Về Thiền-định, các bậc thiền-chi.

Trung Bộ (Tập 1) Kinh 04 : SỢ HÃI KHIẾP ĐẢM  * MLH – 043

 

              Nhưng này Cha-Nút-Sô-Ni !

       Xưa kia Ta đã kiên trì xuất gia

          Sống khổ hạnh rừng già hoang vắng

          Chưa chứng ngộ Chánh Đẳng Phật Đà

              Hành trình tìm đạo trải qua

       Ta cũng từng nghĩ như là hiện nay

          Là khó thay ! Khó bề kham nhẫn !

          Những trú xứ xa vắng hoang vu

              Thật khó viễn ly, độc cư

       Khi Ta chưa được an như chứng Thiền.

          Nhưng sau đó Ta liền suy nghĩ :

 ‘Những Sa-môn , Phạm-chí vị nào

              Thân, khẩu, ý  không thanh cao

       Ba nghiệp bất tịnh, lún sâu đường tà

          Sống tại các nơi xa hoang vắng

          Chốn núi cao hay tận rừng già

              Sợ hãi, khiếp đảm xảy ra

       Ba nghiệp bất thiện khiến ma chướng đầy.

 

          Còn Ta đây tịnh thanh ba nghiệp   

          Thân, khẩu, ý thu nhiếp trong lành

              Dù sống núi thẳm rừng xanh

       Ba nghiệp thanh tịnh sẵn dành bên Ta.

          Bậc Thánh sống nơi xa, hoang vắng

          Luôn tự tại, tâm chẳng phân vân

              Ta tự quán sát nghiệp thân,

       Cả nghiệp khẩu, ýđều chân chánh vầy

          Lòng tự tin, điều đây xác chứng

          Nơi hoang vắng vẫn vững tâm lành

              Mạng sống của Ta tịnh thanh

       Ta thuộc bậc Thánh viên thành, khế cơ

 

Trung Bộ (Tập 1) Kinh 04 : SỢ HÃI KHIẾP ĐẢM  * MLH – 044

 

          Không nhiễm trước bợn nhơ mạng sống

          Không khiếp đảm, phấp phỏng, hãi hùng

              Dù sống hoang vắng núi rừng.     

       Tùy thuộc như vậy, Ta cùng nghĩ suy :

          Những Sa-môn, các vì Phạm-chí

          Nhiều tham dục, ác ý, hận sân

Ái dục cường liệt, rần rần

       Sống nơi trú xứ muôn phần hoang vu

          Trong rừng núi âm u xa vắng

          Thì chắc chắn khiếp đảm, hãi hùng

              Bất thiện khởi lên trùng trùng.

 

       Ta không tham dục, đã dừng hận sân  

          Luôn trưởng dưỡng từ tâm phạm hạnh

          Là bậc Thánh không nhiễm dục trần

              Không ác ý, không hận sân

       Ta tự quán sát, mở dần mối mang

          Về mạng sống hoàn toàn thanh khiết

          Không tham dục, trừ diệt hận sân  

              Trong Ta luôn có từ tâm

       Ta thấy xác chứng muôn phần tự tin

          Khi Ta sống một mình hoang vắng

 (Tâm Ta vẫn bình thản, vui an)

              Ta lại suy nghĩ rõ ràng :

    “ Bà-la-môn hay các hàng Sa-môn

          Bị thụy miên và hôn trầm tới,

Bị dao động bối rối bất an,

Nghi hoặc, do dự hoang mang,

Chê người đầy lỗi, còn toàn khen ta,

          Dễ sợ hãi hay là run rẩy

          Điều dễ thấy : dựng ngược tóc lông,

 

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh SỢ HÃI KHIẾP ĐẢM      MLH  – 045

 

              Ham muốn lợi dưỡng như mong

Ham muốn cung kính, trong lòng muốn danh

Không tinh tấn, pháp hành biếng nhác

Không tỉnh giác, thất niệm hoài hoài

              Tâm bị tán loạn đêm ngày

       Hoặc không định tĩnh, lòng đầy âu lo,

          Hoặc là do ngu đần, liệt tuệ …

          Những vị này rất dễ bất an

Sợ hãi, khiếp đảm vô vàn

       Khi sống những chỗ thật hoang vắng này

          Núi hoang vu, rừng dày tăm tối

          Những bất thiện cũng khởi lên liền.

* * *

              Ta không hôn trầm, thụy miên

       Tâm không dao động, luôn yên tịnh hoài

          Và Như Lai không nghi, do dự

          Không chê người, không tự khen mình

Không run rẩy, sợ không sinh

       Không hề dựng ngược tóc mình hay lông

          Không ham muốn sống trong lợi dưỡng

          Sự danh vọng, kính ngưỡng không màng

              Ta luôn tinh tấn, siêng năng

An trú niệm, tỉnh giác, hằng suốt thông

          Ta định tĩnh, tâm không tán loạn

          Không liệt tuệ , không độn đần chi

              Thành tựu trí tuệ diệu kỳ

       Ta là bậc Thánh trí tri tựu thành.

          Dù Ta sống rừng xanh hoang vắng

          Hay mãi tận núi thẳm, sơn khê

              Cảm thấy tự tin mọi bề

       Đã được xác chứng, không hề sợ chi.

Trung Bộ (Tập 1)  Kinh SỢ HÃI KHIẾP ĐẢM      MLH  – 046

 

          Tự quán sát, nghĩ suy như thế

Ta thành tựu trí tuệ đủ đầy.

              Bàn-môn ! Tùy thuộc ở đây

       Ta suy nghĩ vấn đề này như sau :

          Những đêm nào : mười lăm, mười bốn

          Hoặc là vốn  mồng tám … trung tuần

              Trú xứ hoang vắng núi rừng

       Tóc lông dựng ngược, tưởng chừng đứng tim

          Như tự miếu đắm chìm tăm tối

          Tại thảo viên, cây cối rừng sâu

              Sợ hãi, khiếp đảm, lo âu

       Ta cũng cảm thấy đêm thâu hãi hùng

          Tại trú xứ núi rừng tự miếu

          Hoặc tự miếu cây cối, viên lâm

              Mồng tám, mười bốn hay rằm

       Ta đến các chốn tối tăm nơi này

          Tại chốn đây biết bao nguy biến

          Có thể sẽ xảy đến tiếp theo

              Như là thú dữ cọp, beo

       Con công gây động, cú mèo rúc vang

          Hay gió rít, vượn đang gào hú

          Ta liền chú tâm nghĩ mông lung :

            “ Nay sự khiếp đảm, hãi hùng

       Kéo đến vây hãm trùng trùng quanh ta ”.   

 

          Này Bàn-môn ! Rồi Ta suy nghĩ :

          Sao Ta chỉ ngong ngóng chờ thôi

              Sợ hãi, khiếp đảm từng hồi

Chớ không gì khác, để rồi bất an.

          Phải diệt tan hãi hùng, sợ dữ

          Trong bất cứ cử chỉ hành vi

 

Trung Bộ (Tập 1) Kinh 04 : SỢ HÃI KHIẾP ĐẢM  * MLH – 047

 

              Này Bàn-môn ! Khi Ta đi

Kinh hành qua lại, rồi thì xảy ra

          Sự khiếp đảm hay là sợ hãi

          Thì khi ấy Ta biết diệt nhanh :

 ‘Ta đây đang đi kinh hành

       Sự khiếp hãi đó khi mình đi thôi           

          Ta không nằm, không ngồi, không đứng’.

          Cũng vậy, khi Ta đứng một nơi

              Mà sự sợ hãi đến, thời

       Ta không đi lại, nằm, ngồi ở đây

Ta diệt sự sợ này khi đứng.

           Tự xác chứng trong bốn oai nghi

              Khi Ta nằm, ngồi, đứng, đi

       Diệt sợ hãi trong hành vi bấy giờ.

 

          Này Bàn-môn ! Mê mờ, ngoan cố

          Có một số Phạm-chí , Sa-môn

              Nghĩ rằng ngày giống như đêm

       Hoặc là họ nghĩ là đêm giống ngày.

          Ta nghĩ những người này si ám

          Luôn đeo bám tà kiến sâu dày

              Riêng Ta nghĩ : Ngày là ngày       

       Đêm là đêm – sự việc đây thường hằng

          Nên nếu người công bằng, chân chính

          Sẽ nhất định phát biểu như ri :

 

            “ Hữu tình nào không ám si

       Sinh ra trần thế chỉ vì chúng sanh

          Vì hạnh phúc, an lành muôn loại

          Vì thương tưởng các cõi Trời, người ”.

              Một cách chân chính, dùng lời

       Nói về Ta thị hiện đời như sau :   

Trung Bộ (Tập 1) Kinh 04 : SỢ HÃI KHIẾP ĐẢM  * MLH – 048

 

       “ Bậc thanh cao, dứt trừ si ám

          Là hữu tình phạm hạnh tịnh thanh

              Ra đời lợi ích chúng sanh

Vì sự hạnh phúc, an lành muôn nơi

          Vì an lạc Người, Trời, muôn loại ”

Do chân chánh, họ nói như vầy.

 

              Này Bà-la-môn ! Ta đây

       Luôn luôn tinh tấn, thẳng ngay, tinh cần

          Không lười biếng, an phần chánh niệm

          Không loạn động, thúc liễm thân tâm

              Tâm được định tĩnh, chuyên cần

       Oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm khinh an.

* Ta ly dục, diệt tan ác pháp

          Rồi chứng đạt, an trú Nhất Thiền

              Trạng thái hỷ lạc vô biên

       Do sanh ly dục với duyên Tứ, Tầm

* Rồi diệt tầm, diệt luôn cả tứ 

          Chứng và trú Nhị Thiền âm thầm

Rất hỷ lạc, không tứ, tầm

       Định sanh, nội tĩnh nhất tâm, an hòa.

       * Tiếp đến Ta ly hỷ trú xả 

          Chánh niệm cả tĩnh giác tinh chuyên

              Tân cảm sự lạc thọ liền

       Mà xưa các bậc Thánh hiền trải qua

Gọi đó là ‘xả niệm lạc trú’

Ta chứng, trú vào Đệ Tam Thiền.

            * Xả lạc, xả khổ được yên

       Diệt hỷ, ưu – cảm thọ liền trước đây

          An trú ngay Tứ Thiền chứng đạt

          Không khổ, lạc ; xả niệm tịnh thanh.

 

Trung Bộ (Tập 1) Kinh 04 : SỢ HÃI KHIẾP ĐẢM  * MLH – 049

 

              Với tâm định tĩnh, tinh anh

       Không cấu nhiễm, dứt phát sanh não phiền

          Tâm nhu nhuyến, an nhiên, vững chắc

          Không vướng mắc, bình thản thảnh thơi

              Ta dẫn tâm hướng đến nơi

Túc-mạng-trí, nhớ nhiều đời đã qua

          Những tiền kiếp xưa xa vô kể

          Trải bao lần dâu bể chơi vơi 

 

Quá khứ với một, hai đời

Năm chục, ba bốn trăm đời đã qua,

Một ngàn đời hay là hơn nữa,

          Một trăm ngàn đời thuở lâu xa

Hoại kiếp, thành kiếp trải qua

Vị ấy nhớ lại như là mới đây.

Tại nơi ấy, tên này ta có

Thuộc giai cấp, giòng họ thế này

Uống, ăn, thọ khổ, lạc  rày

Tuổi thọ như thế, chết ngày ra sao

Ta tái sinh, nhằm vào làng đó

Có tên tuổi, giòng họ thế nào

Cứ thế, nhớ lại biết bao

Tiền kiếp, tái kiếp không sao đếm rồi.

 

(Thời tìm đạo, không rời sổ-tức)

          Trong canh đầu nỗ lực tự mình

              Ta chứng đắc Túc Mạng Minh

       Minh sanh rực rỡ, vô minh diệt rày

          Bóng tối diệt, sanh ngay ánh sáng

          Trong giai đoạn Ta sống tinh cần

              Không phóng dật, luôn nhiệt tâm

       Là minh thứ nhất, chứng phần pháp siêu.

Trung Bộ (Tập 1) Kinh 04 : SỢ HÃI KHIẾP ĐẢM  * MLH – 050

 

          Tâm Ta chỉ một điều thuần tịnh

          Luôn định tĩnh, không nhiễm não phiền

              Nhu nhuyến, vững chắc, an nhiên

       Bình thản như vậy, tâm chuyên an hoài.

 

          Rồi Như Lai hướng tâm đến với

          Sinh-tử-trí, dẫn tới tuệ minh

Xét về sinh tử chúng sinh

Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy liền

Vị ấy biết mối giềng Nghiệp quả

Người hạ liệt, kẻ cả giàu sang

Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn

Đều do hạnh nghiệp trắng đen họ làm.

 

Gieo ác hạnh về thân, khẩu, ý

Hoặc phỉ báng các vị Thánh Hiền

Người này thân hoại, tận duyên     

Do nghiệp tà kiến, đọa liền súc sinh

Các cõi dữ, như sinh địa ngục

Hoặc đọa xứ, thằng thúc nạn tai.

 

          * Còn bậc hiền giả, những ai

Làm những thiện hạnh  ý  và lời, thân

Không phỉ báng Hiền nhân, Thánh hiển

Tạo nghiệp lành, chánh kiến vô cùng

Sau khi thân hoại mạng chung 

Được sinh thiện thú, nhân trung, cõi trời

Do thiên nhãn, biết đời sống chết

Người hạ liệt  hay kẻ giàu sang

Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn

Người này bất hạnh, kẻ bèn gặp may

Do hạnh nghiệp kẻ này hành động

Có kết quả chẳng giống nhau vầy.

Trung Bộ (Tập 1) Kinh 04 : SỢ HÃI KHIẾP ĐẢM  * MLH – 051

 

Luân hồi tùy nghiệp chuyển xoay

Không ai tránh khỏi trả vay nghiệp dày.

 

          Bàn-môn này !Trong đêm canh giữa

          Ta nương tựa nỗ lực chính mình

              Chứng đắc được Thiên Nhãn Minh

       Minh sanh rực rỡ, vô minh diệt rày

          Bóng tối diệt, sanh ngay ánh sáng

          Trong giai đoạn Ta sống tinh cần

              Không phóng dật, luôn nhiệt tâm

       Minh thứ hai đắc, chứng phần pháp siêu.

          Tâm Ta chỉ một điều thuần tịnh

          Luôn định tĩnh, không nhiễm não phiền

              Nhu nhuyến, vững chắc, an nhiên

       Bình thản như vậy, tâm chuyên an hoài.

 

          Rồi Như Lai hướng tâm đến với

Lậu-tận-trí, dẫn tới biết rành

              Thắng tri như thật ngọn ngành :

Đây là sự Khổ, nguyên nhân đưa vào

Đây Khổ Diệt, đường nào diệt khổ

  Biết như thật lậu-hoặc loại này

     Nguyên nhân lậu-hoặc là đây

       Diệt trừ lậu-hoặc, biết ngay con đường

  Nhờ thắng tri, tận tường nhận thức

Tâm vị ấy rất mực sáng trong

Dục-lậu, hữu-lậu  thoát xong

Thoát vô-minh-lậu, khỏi vòng trói trăn

Liền hiểu rõ : Tự thân giải thoát

Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành

Việc cần làm, đã thực hành

Sau đời hiện tại, Vô sanh hiển bày.

Trung Bộ (Tập 1) Kinh 04 : SỢ HÃI KHIẾP ĐẢM  * MLH – 052

 

          Bàn-môn này ! Canh ba đêm ấy

          Minh thứ ba chứng lấy tự mình

              Chứng đắc được Lậu Tận Minh

       Minh sanh rực rỡ, vô minh diệt rày

          Bóng tối diệt, sanh ngay ánh sáng

          Trong giai đoạn Ta sống tinh cần

              Không phóng dật, luôn nhiệt tâm

       Tam Minh chứng đắc, ba phần pháp siêu.

 

          Này Bàn-môn ! Một điều có thể

          Tư tưởng ông đại để nghĩ là :

‘Nay Sa-Môn Gô-Ta-Ma

       Chưa trừ diệt được tham và sân, si

          Hãy nên sống mọi thì trú xứ

          Rừng núi có thú dữ, hiểm nguy’.

 

              Chớ hiểu như vậy làm gì

Vì Ta quán sát, thắng tri vấn đề

          Hai mục đích thuộc về Ta sống

          Các trú xứ phấp phỏng, bất an

              Hoang vu, xa vắng non ngàn :

   –  Vì lòng thương tưởng các hàng chúng sinh ,     

      –  Tự thấy mình hiện thời lạc trú.      

 (Hai mục đích vốn đủ trí – bi).

 

              Bàn-môn Cha-Nút-Sô-Ni 

       Lắng nghe đức Chánh Biến Tri Phật Đà

          Thuyết giảng sự sợ và khiếp đảm

          Sự tinh tấn cùng phạm hạnh này

              Ông đã hoan hỷ thưa ngay :

    “ Trong tương lai, chúng sinh đầy phước duyên

          Được Tôn Giả trí hiền thương tưởng

 

Trung Bộ (Tập 1) Kinh 04 : SỢ HÃI KHIẾP ĐẢM  * MLH – 053

 

          Vì Ngài là Vô Thượng Phật Đà

              Đại A-La-Hán sâu xa

       Bậc Chánh Đẳng Giác từ hòa đáng tôn.

          Vi diệu thay ! Pháp môn Ngài dạy

Thật vi diệu Pháp ấy. Lành thay !

Bạch Tôn Giả, Đấng Như Lai ! 

       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm

Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối

Đem đèn sáng vào tối như bưng

Để ai có mắt mở bừng

Có thể thấy được sáng trưng sắc màu.

*

Cũng như vậy, nhiệm mầu Chánh Pháp

Được Tôn Giả giải đáp, trình bày

Con xin quy ngưỡng từ nay

       Quy y Tôn Giả, nương ngay Pháp mầu

Quy y Tăng thanh cao đức cả

Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn

Mong Thế Tôn nhận cho con

Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên

Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục

Kể từ nay đến lúc mạng chung,

              Nguyện vâng theo Đấng Đại Hùng

       Thực hành Giáo Pháp muôn trùng cao thâm ”.

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt  Kinh số 4 :  SỢ HÃI KHIẾP ĐẢM  –  BHAYABHERAVA  Sutta  )

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2012(Xem: 4387)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3438)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4151)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 10984)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 10943)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3193)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5134)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3495)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3567)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
08/04/2012(Xem: 3346)
Kính thưa Thầy, Thầy về cõi Phật lòng thanh thoát. Con ở dương trần dạ tiếc thương. Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 năm đầu tiên vắng Thầy, đọc lại « Nữa chữ cũng là Thầy » để các thế hệ học trò cũ của Thầy mãi mãi nhớ ơn Thầy, người giáo viên nhân dân, kỹ sư tâm hồn, người ươm mầm non tương lai cho quê hương, đất nước…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]