Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

118. Kinh Quán Niệm Hơi Thở

19/05/202011:30(Xem: 10896)
118. Kinh Quán Niệm Hơi Thở

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


118. Kinh NHẬP TỨC, XUẤT TỨC NIỆM

( Kinh Quán Niệm Hơi Thở

Anàpànasati sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, đức Thế Tôn Thiện Thệ 

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ – trú qua  (1)

              Đông Viên – Búp-Bá-Ra-Ma  (2)

       Mi-Ga-Ra-Má-Tú-Pa-Sá-Đề  (2)

          Tức thuộc về Giảng Đường Lộc Mẫu,

          Cùng với hàng Tăng Bảo tài ba 

              Như ngài Sa-Ri-Pút-Ta,  (3)

       Ma-Ha Mốc-Gá-La-Na, cùng là

          Ngài Ma-Ha Kách-Cha-Da-Ná,  (3) …

          Đại Chun-Đá, A-Nú-Rút-Tha,

              Ngài Ma-Ha Kốt-Thi-Ta,

      Rê-Va-Tá, A-Nan-Đa, cùng là

         Ma-Ha Káp-Pi-Na Tôn-giả,

         Cùng nhiều bậc Thượng Tọa tài danh

    _______________________________

 

(1) : Thành Xá-Vệ  –  Savatthi. Nơi có Kỳ Viên Tinh Xá.

(2) : Đông Phương Tự  – Pubbaràma hay Đông Viên, có Giảng

    Đường Lộc Mẫu – Migaramatupasade.

(3) : Các vị Tôn-giả : Mahà Sariputta (Xá-Lợi-Phật - đệ nhất Trí

   Tuệ), Mahà Moggallana (Mục-Kiền-Liên - đệ nhất Thần Thông),

   Mahà Cunda, Anuruttha (A-Nậu-Lâu-Đà hay A-Na-Luật - đệ 

  nhất Thiên Nhãn), Mahà Kotthita (Đại Câu-Hy-La - đệ nhất Đắc

  Giải), Revata (Ly-Bà-Đa - đệ nhất Thiền Định), Mahà Kappina

  (Đại Kiếp-Tân-Na - Đại Thần Thông). 

 

              Lúc ấy, các vị tịnh thanh

       Tỷ Kheo Thượng Tọa, bậc rành pháp môn

          Dạy các Tân Sa-môn Phích-Khú

          Khuyến giáo, dạy quy củ Thiền-gia.

              Một số Thượng Tọa trải qua

       Dạy cho mười vị mới, là Tỷ Kheo,

          Một số vị Tỷ Kheo Thượng Tọa

          Khuyến giáo, dạy cho cả hai mươi,

              Hoặc dạy ba mươi, bốn mươi.

       Các Tân Phích-Khú nghe lời dạy khuyên

          Của hiện tiền Giáo Thọ các vị,

          Đều hoan hỷ, ý thức rõ ràng

              Về những quả vị minh quang,

       Cao diệu, thù thắng của hàng xuất gia,

          Đã chứng đạt trải qua nhanh chậm.

 

          Lúc ấy, đấng Đại Giác uyên thâm

              Vào ngày Bố-tát đêm rằm

       Sau ngày Tự Tứ tháng âm trăng tròn,

           Đức Thế Tôn an tọa giữa Chúng

           Tỷ Kheo Tăng đang cũng ngồi quanh.

 

               Phật nhìn Chúng Tăng tịnh thanh

       Đang rất yên lặng, an lành ngồi yên,

          Thế Tôn liền bảo hàng Tăng Bảo :

 

    – “ Ta thỏa mãn với đạo lộ này,

             Các Tỷ Kheo ! Tâm Ta nay

       Thỏa mãn với đạo lộ đây nhiệm huyền,

          Các Tỷ Kheo ! cần chuyên hơn thế

          Để có thể chứng đạt những gì

              Mình chưa chứng đạt, liễu tri,

       Chứng ngộ viên mãn những chi chưa thành.   

 

 

          Xá-Vệ thành, Ta sẽ ở đó

          Đến tháng tư, lễ Kố-Mu-Đi ”. 

              Được nghe đức Chánh Biến Tri

       Sẽ ở lại Sa-Vát-Thi dài ngày,

          Những Tỷ Kheo nơi đây – Xá-Vệ

          Cùng các nơi gần kế Thành này

              Tụ họp tại xá-Vệ ngay

       Để được yết kiến bậc Thầy Nhân Thiên.

          Các Tỷ Kheo cao niên lạp trưởng

          Lại ra sức bồi dưỡng, dạy khuyên

              Các Tân Tỷ Kheo thanh niên

      (Hoặc là bán thế có duyên tu hành).

          Do các vị tịnh thanh Giáo Thọ

          Đã hết lòng dạy dỗ, răn khuyên

              Giảng dạy ý thức căn nguyên

       Hiểu rõ quả vị nhiệm huyền cao siêu,

          Rất thù thắng và nhiều vi diệu

          Nếu thấu hiểu, chứng đạt uyên thâm.

              Lại vào Bố-tát ngày rằm

       Trăng tròn vằng vặc, lễ nhằm tháng tư,

          Đấng Đại Từ ngồi trên bãi cỏ

          Chung quanh có Chúng Tăng đoanh vây.

              Phật nhìn Chúng Tăng nơi này

       Đang rất yên lặng, rồi Ngài nói ngay :  

 

    – “ Chúng Tăng này ! Đây là Hội Chúng

      _______________________________

 

(1) : Komudi là ngày trăng tròn tháng tư (Kattika) trong mùa

      Tự Tứ (Pavàranà) của Chư Tăng sau 3 tháng An cư Kiết hạ.

(2) : Bố-tát – Uposatha : Là ngày tụng đọc Giới-bổn Patimokkha-

    Sanvarasìla (Biệt biệt giải-thoát thu thúc giới) của Chư Tăng

   vào hai ngày Mùng 1 và 14 Âm-lịch mỗi tháng, để kiểm điểm sự

   giữ giới của mỗi vị và tùy theo mà phát lồ sám hối.

 

          Không thừa thải mà cũng không dư,

              Đã được an trú ví như

       Lõi cây thanh tịnh, đồng cư an lành.

          Với hội chúng tịnh thanh như thế

          Đáng tôn trọng, kính lễ, cúng dường,

              Đáng được chắp tay tán dương,

       Ruộng phước vô thượng thanh lương trên đời.

 

          Tăng Chúng ấy là nơi đạt được :

          Bố thí ít được phước báo nhiều,

              Nếu mà càng bố thí nhiều

       Thì được phước báo càng nhiều hơn lên.

          Hội Chúng trên – Tỷ Kheo Tăng ấy

          Là hội chúng khó thấy ở đời,

              Xứng đáng để cho những người

       Tín tâm, đi bộ từ nơi của mình

          Trải qua nhiều do-tuần diệu vợi,

          Trên vai với lương thực đầy bao

              Đi đến nơi bậc thanh cao

      (Hội chúng Tăng Bảo) đê đầu lễ tôn

          Chúng Tỷ Kheo sa-môn này vậy.

          Hội Chúng ấy thanh tịnh, hợp hòa.

 

              Trong Chúng Tỷ Kheo kể ra

       Có những Phích-Khú chính là Thánh Tăng

          A-La-Hán (4) đã hằng đoạn tận

          Các lậu-hoặc, Phạm hạnh đã thành

              Việc cần làm đã thi hành,

       Gánh nặng đã được đặt nhanh xuống rồi,

          Mục đích đã tức thời thành đạt

          Hữu-kiết-sử, các ác diệt rày,

    ________________________________

(4) : Xem chú thích ở trang kế.

 

              Giải thoát nhờ chánh trí vầy,

       Chúng Tăng có các vị này nghiêm trang.

          Trong hội chúng các hàng Phích-Khú

          Năm hạ phần kiết-sử diệt trừ

              Hóa sinh cõi Trời Tịnh Cư

       Chứng Bất-Lai quả (3) và từ cõi đây

          Sẽ nhập Niết Bàn đầy tự tại

          Không còn sinh trở lại cõi đời.

              Bậc A-Na-Hàm này thời

       Có mặt trong hội chúng nơi Tăng Già.

 

          Các Tỷ Kheo (hay là Phích-Khú)

          Đoạn trừ ba kiết-sử thực thi

              Muội lược cả tham, sân, si

       Chứng Nhất Lai quả (2) bởi vì vị đây

          Còn tái sinh đời này một kiếp,

          Sẽ đoạn hết phiền não khổ đau.  

              Bậc Tỷ Kheo này thanh cao

       Cũng có hiện diện, hoà vào Chúng Tăng.

 

          Các Tỷ Kheo ! Trong Tăng Chúng đó

          Cũng đã có những vị Tỷ Kheo

              Diệt ba kiết sử dính đeo

       Chứng Dự-Lưu quả (1) nương theo pháp lành

          Không còn sanh vào ác đạo lộ,

          Sẽ giác ngộ bảy kiếp về sau.

    _______________________________

 

*  Bốn thánh quả Thinh-Văn-Giác  : (1) :Tu-Đà-Hoàn ( Sotàpatti )   hay Dự Lưu quả hoặc Thất Lai quả (chỉ còn sinh lại thế gian 7 lần) (2) : Tư-Đà-Hàm ( Sakadàgàmi ) hay Nhất Lai quả (sinh lại 1 lần) 

(3) : A-Na-Hàm ( Anàgàmi ) hay Bất Lai quả ( sinh lên cung trời

      Tịnh Cư (Suddhàvàsa) để tiếp tục tu và nhập Vô Dư Niết Bàn .   

(4) : A-La-Hán ( Araham ) được dịch là Vô Sanh , Vô Học , Ứng

       Cúng , sau khi mạng chung sẽ tấn nhập Vô Dư Niết Bàn .

 

              Bậc Tỷ Kheo này thanh cao

       Cũng có hiện diện, hòa vào Chúng Tăng.

 

          Các Tỷ Kheo ! Trong Tăng Chúng đó

          Cũng đã có Tỷ Kheo chuyên tâm

              Tu Bốn niệm-xứ chú tâm

       Bậc Tỷ Kheo đó cũng nằm trong Tăng.

          Các Tỷ Kheo ! trong Tăng Chúng đó

          Cũng đã có những vị tinh cần

              Chuyên tâm, chú tâm tu phần

       Bốn như-ý-túc & Chánh cần hai đôi,

          Năm căn, năm lực rồi cố gắng

          Bảy giác-chi tinh tấn hành trì.

              Các bậc Tỷ Kheo uy nghi

       Tám ngành Thánh đạo mọi thì chuyên tâm

          Và chú tâm nỗ lực tu tập,

          Các vị đều có mặt trong Tăng.

 

              Các Tỷ Kheo ! Trong Chúng Tăng

       Cũng có những vị chuyên cần, chú tâm

          Tu tập về từ tâm, bi mẫn,

          Hỷ tâm lẫn xả tâm hành trì

              Đều có trong Tăng Chúng ni.

       Các bậc tinh tấn mọi thì chuyên tâm

          Và chú tâm tu tập bất tịnh,

          Vô thường tưởng, đặc tính chuyên tu

              Trong chúng chư vị Phích-Khu

       Đã có những vị Phích-Khu như vầy.   

          Trong Chúng Tỷ Kheo này cũng có

          Những Tỷ Kheo luôn cố chuyên tâm,

              Chú tâm tu tập về phần

      ‘Nhập tức, xuất tức niệm’ hằng dõi theo.  

 

 

(Quán niệm hơi thở)

 

          Các Tỷ Kheo ! ‘Nhập & xuất tức niệm’

          Tức ‘Quán niệm hơi thở’ đề tài

              Nếu được tu tập hằng ngày,

       Làm cho sung mãn, đưa ngay đến điều

          Được quả lớn, được nhiều công đức,

          Niệm nhập tức, xuất tức cần chuyên

              Làm cho sung mãn, là duyên

       Khiến ‘bốn niệm xứ’ được viên mãn liền.

          Bốn niệm xứ được siêng tu vậy

          Sung mãn, khiến cho ‘bảy giác chi’

              Được viên mãn. Và một khi

       Được tu tập bảy giác chi đủ đầy,

         ‘Minh giải thoát’ đạt ngay viên mãn.

 

          Các Tỷ Kheo ! Công đoạn thế nào

              Là tu thở ra thở vào

       Làm cho sung mãn là sao điều này ?

          Như thế nào đạt ngay quả lớn,

          Công đức lớn do quán niệm này ?

 

              Này các Tỷ Kheo ! Ở đây

       Vị Tỷ Kheo ấy đến ngay rừng già,

          Hoặc gốc cây, ngôi nhà trống vắng,

          Ngồi kiết già lưng thẳng, an như

              Chánh niệm thở vô khoan thư,

       Chánh niệm, vị ấy từ từ thở ra,

          Vị ấy biết thở ra dài, ngắn,

          Hay thở vô dài, ngắn – biết ngay.

              Vị ấy cũng biết như vầy :

      ‘Cảm giác cả toàn thân’ này biết mau,

          Tập thở vào, thở ra sâu, chậm,        

         ‘An tịnh thân hành’ chậm, sâu – và

             ‘An tịnh thân hành’ thở ra,

      ‘Thân hành an tịnh’ rồi ta thở vào.

          Tôi thở vào : ‘cảm giác hỷ thọ’,

          Tập : ‘cảm giác hỷ thọ’, thở ra.

             ‘Cảm giác lạc thọ’ thở ra

      ‘Cảm giác lạc thọ’, rồi ta thở vào.

         ‘Cảm giác tâm hành’ nào tôi tập

          Nhẹ thở vào rồi tập thở ra.

             ‘An tịnh tâm hành’, thở ra

      ‘An tịnh tâm hành’ tập và thở vô.

          Tôi thở vô ‘về tâm cảm giác’

          Tập ‘cảm giác về tâm’, thở ra

             ‘Tâm hân hoan’ thở vào & ra 

       Với ‘tâm định tĩnh’ thở ra, thở vào.

         ‘Tâm giải thoát’ thở vào & ra, tập

          Vị ấy tập về ‘quán vô thường’

               Thở vô, thở ra hiểu tường.

      ‘Ly tham’, ‘đoạn diệt’ quán nương không rời.

 

          Thở vào rồi thở ra sâu, chậm

         ‘Quán từ bỏ’ sâu, chậm thở ngay,

              Thở vô, thở ra tập vầy

      ‘Quán niệm hơi thở’ đêm ngày cần chuyên,

          Tu tập siêng, làm cho sung mãn

          Thời căn bản được quả lớn ngay,

              Được công đức lớn, sâu dày.

 

(Làm viên mãn Bốn Niệm Xứ)

 

       Các Tỷ Kheo ! Thế nào đây hành trì

         ‘Quán hơi thở’ mọi thì tu tập ?

Làm sao thật sung mãn pháp này ?   

              Khiến ‘bốn niệm xứ’ tròn đầy ?

       Các Tỷ Kheo ! Khi vị đây thở vào,

          Thở ra sao ? Thở vào dài, ngắn,

          Hay dài, ngắn – vị ấy thở ra,

              Cảm giác cả toàn thân, và

       Thân hành an tịnh, thở ra, thở vào.

          Vị ấy tập thở vào, ra đó

          Trong khi có quán thân trên thân,

              Vị Tỷ Kheo ấy trú an

       Nhiệt tâm, tỉnh giác, niệm cần chánh chân,

          Chế ngự phần tham, ưu tích tụ.

 

          Các Phích-Khú ! Đối với các thân

              Vị ấy an trú, nhiệt tâm

       Tỉnh giác, chánh niệm, quyết tâm thật nhiều,

          Chế ngự điều tham, ưu cõi thế.

 

          Các Tỷ Kheo ! Cứ thế, vị này

              Nghĩ : ‘Cảm giác hỷ thọ’ đây

       Tôi thở vô, thở ra ngay, thực hành,

          Cảm giác lạc thọ mình tập thở

          Tôi tập thở vào đoạn thở ra.

              Cảm giác tâm hành tập, và

       Tâm hành an tịnh thở ra, vào – thì

          Vị ấy trong khi tùy quán thọ

          Trên các thọ, vị ấy trú thầm

              Tỉnh giác, chánh niệm, nhiệt tâm

       Cần để chế ngự ưu, tham đời này.

 

          Các Tỷ Kheo ! Ở đây đối với

          Các cảm thọ, tôi nói đây là

              Đích thị là một, tức là

       Thực hành quán niệm thở ra, thở vào.

          Các Tỷ Kheo ! Khi nào vốn dĩ

          Vị ấy nghĩ : ‘Với cảm giác tâm

              Tôi thở vô, ra – tập thầm 

      ‘Với tâm hoan hỷ’ âm thầm thở ra,

          Thở vô và ‘với tâm thiền-định’

         ‘Tâm giải thoát’, tập tính thở đều

              Vào, ra, sâu, chậm dõi theo

       Trong khi tùy ‘quán tâm đều trên tâm’.

 

          Các Tỷ Kheo ! Nhiệt tâm Phích-Khú 

          Tỉnh giác, trú, chánh niệm mọi thời

              Chế ngự tham, ưu ở đời.

 

       Này các Phích-Khú ! Quán hơi thở thời

          Không thể đến với người thất niệm

          Không tỉnh giác, không kiểm soát tâm.

              Khi nào vị ấy nghĩ thầm :

      ‘Quán vô thường’, tôi chú tâm thở vào

          Rồi thở ra, chậm, sâu – tôi tập.

          Tôi cũng tập về ‘quán ly tham’

             ‘Quán đoạn diệt’ tôi thực hành,

      ‘Quán từ bỏ’, thở an lành vàp, ra.

          Trong khi mà ‘quán trên các pháp’

          Thời thích hạp vị ấy trú an

              Tỉnh giác, chánh niệm, nhiệt tâm

       Cần để chế ngự ưu, tham ở đời.

 

          Do tức thời tham, ưu trừ diệt  

          Khi thấy, biết với trí tuệ, thì

              Khéo nhìn với sự xả ly

       Tất cả sự vật, nên Tỳ-Kheo khi

          Thực hành tùy ‘quán pháp trên pháp’

          Và Tỷ Kheo an lạc, tịnh thanh 

              An trú, tỉnh giác, nhiệt tâm,

       Chánh niệm, chế ngự ưu, tham ở đời.

          Do từ nơi tham, ưu trừ diệt

          Khi thấy, biết với trí tuệ, thì

              Cái nhìn với sự xả ly.

 

       Này các Phích-Khú ! Trong khi vững bền

          Quán pháp trên các pháp như thế,

          Vị Tỷ Kheo được kể trú an,

              Tỉnh giác, chánh niệm, nhiệt tâm

       Cần để chế ngự ưu, tham ở đời.

          Nếu ‘quán hơi thở’ được tu tập

          Làm sung mãn cùng khắp như vầy

              Khiến ‘bốn niệm xứ’ tròn đầy.

 

(Làm viên mãn Bảy Giác Chi)

 

       Bốn niệm xứ ấy ở đây thế nào

          Được tu tập ? Thế nào sung mãn

          Khiến viên mãn cho ‘bảy giác chi’ ?

              Này các Tỷ Kheo ! Trong khi

       Tùy quán thân trên thân, thì vị đây

          Trú, nhiệt tâm và đầy tỉnh giác

          Chánh niệm, chế ngự các ưu, tham,

              Lúc ấy, niệm không mê đam

       Của Tỷ Kheo ấy được an trú về

          Lúc niệm không hôn mê vị ấy.

          Được an trú như vậy, đồng thì

              Trong khi ấy, niệm giác chi

       Bắt đầu được khởi với vì Tỷ Kheo.

 

         ‘Niệm giác chi’ Tỷ Kheo tu tập

          Đi đến thật viên mãn (tròn đầy)

              An trú với chánh niệm này,

       Tư duy chân chánh, vị này suy tư,

          Thẩm sát pháp ấy từ trí tuệ

          Từ sự thể chánh niệm trú qua,

              Tỷ Kheo với trí tuệ, mà

       Tư duy, suy gẫm, thẩm tra pháp này,

         ‘Trạch pháp giác chi’ nay được khởi

          Vị ấy tu tập với pháp ni

             (Tức là trạch-pháp giác-chi)

       Tu tập mãi cho đến khi tròn đầy.

 

          Tỷ Kheo này tiếp tục tu tập

          Được thu thập kết quả tạo nên

             ‘Tinh tấn giác chi’ khởi lên,

      ‘Hỷ giác chi’ cũng khởi lên tròn đầy.

         ‘Khinh an giác chi’ đây được khởi

          Chính do bởi Tỷ Kheo hành trì

              Tu tập Khinh-an giác-chi 

       Đi đến sung mãn ‘giác chi’ hoàn toàn.

          Vị có thân khinh an như vậy

          Tâm vị ấy định tĩnh, an hòa

             ‘Định giác chi’ được khởi ra

       Với tâm định tĩnh trải qua, vị này

          Khéo nhìn sự vật đây mọi điểm

          Với ý niệm xả ly tức thì.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Trong khi 

       Với tâm định tĩnh, niệm thì xả ly

         ‘Xả giác chi’ bắt đầu khởi dậy

          Trong khi giác-chi ấy hành trì

              Làm cho sung mãn tức thì.

       Này các Phích-Khú ! Trong khi vị này

         ‘Quán thọ ngay trên các cảm thọ’,            

          Hay vị đó ‘quán tâm trên tâm’,

             ‘Quán pháp trên các pháp’ cần

       Tu tập lần lượt các phần nêu trên.

          Bảy giác-chi khởi lên tuần tự

          Vị Phích-Khú tu tập tinh cần

              Đưa đến sung mãn vô ngần

       Do ‘bốn niệm xứ’ chuyên tâm hành trì.

 

(Minh-giải-thoát được viên mãn)

 

          Các Tỷ Kheo !Giác-chi bảy thứ

          Vị Phích-Khú tu tập thế nào ?

              Làm cho sung mãn ra sao ?

       Khiến ‘Minh-giải-thoát’ dồi dào, mãn viên ?

          Các Tỷ Kheo ! Cần chuyên Phích-Khú

          Tu chuyên chú về Niệm-giác-chi

              Liên hệ đến sự viễn ly

       Và liên hệ đến sự ly tham này,

          Xả ly ngay liên hệ đến diệt.

          Rồi mãi miết tu các giác-chi

              Tuần tự : ‘Trạch-pháp giác-chi’,

      ‘Giác-chi tinh-tấn’, ‘giác-chi hỷ’ này

         ‘Khinh-an giác-chi’ đây đạt cả

         ‘Định giác-chi’ và ‘xả giác-chi’

              Đều liên hệ đến viễn ly,

       Ly tham và diệt đồng thì liên quan

          Hướng xả ly, hoàn toàn tròn đủ.

 

          Các Phích-Khú ! Bảy giác-chi này

              Đã được tu tập như vầy

       Làm cho sung mãn, tràn đầy tịnh thanh,

          Khiến cho Minh-giải-thoát viên mãn

          Từ việc ‘quán hơi thở’ hành trí.  

 

 

              Nghe từ đấng Chánh Biến Tri

       Chúng Tăng hoan hỷ, kiên trì niềm tin ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*   *

 

( Chấm dứt Kinh số 118 :  NHẬP TỨC, XUẤT TỨC NIỆM  –

QUÁN NIỆM HƠI THỞ  –  ÀNÀPÀNASATI  Sutta )

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2012(Xem: 5339)
法住天寒極地空花如雪鎖禪扃生死遙程幾許夢回故里 雲行色没浮漚暮影凝烟参晚课唄吟長夜有時聲斷洪洲 Âm: Pháp Trụ thiên hàn cực địa, không hoa như tuyết tỏa thiền quynh, sinh tử diêu trình, kỷ hứa mộng hồi cố lý. Vân hành sắc một phù âu, mộ ảnh ngưng yên tham vãn khóa, bái ngâm trường dạ, hữu thời thanh đoạn hồng châu Ôn dịch nghĩa: Cực thiên Bắc, tuyết dồn lữ thứ, sắc không muôn dặm hoa vàng, heo hút đường về, non nước bốn nghìn năm soi nguồn đạo PHÁP Tận hồng châu, chuông lắng đồi thông, bào ảnh mấy trùng sương đẫm, mênh mông sóng cuộn, dòng đời quanh chín khúc rọi bóng phù VÂN
01/10/2012(Xem: 4456)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3508)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4221)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 11420)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 11329)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3278)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5358)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3564)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3655)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]