Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

84. Kinh Madhurà

19/05/202010:52(Xem: 10246)
84. Kinh Madhurà

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập III
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


84. Kinh MADHURÀ

( Madhurà sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đại Luận Nghị Tôn-giả

          Là Ma-Ha Kách-Chá-Da-Na  (1)

             ( Hay Ma-Ha Kách-Cha-Na,

       Ca-Chiên-Diên cũng chính là vị đây ).

          Lúc ấy ngài trú Ma-Đu-Rá

          Tại khu rừng Gun-Đá (2) trải qua.

 

              Đức vua xứ Ma-Đu-Ra  (2)

       Là A-Vanh-Tí-Pút-Ta (2), nghe là :

       “ Sa-môn Ma-Ha Kách-Cha-Ná

          Hiện trú Gun-Đá – Ma-Thu-Ra

              Tiếng đồi tốt đẹp lan xa :

     ‘Ma-Ha Kách-Chá-Da-Na ngài này

          Bậc Hiền-giả, bậc đầy Trí-giác

          Bậc Đa văn, lưu loát nói năng 

              Biện tài lão luyện, Cao Tăng

       Bậc A-La-Hán muôn phần tịnh thanh.

          Thật tốt lành nếu được yết kiến

          Một Thánh Tăng danh tiếng như vầy ”.

 

              Đức vua liền ra lệnh ngay : 

       Cỗ xe thù thắng cho bày nhiều xe

          Vua lên một cỗ xe thù thắng 

    _______________________________

 

(1) : Tôn-giả Mahà Kaccayàna  hay  Kaccanà , phiên âm là Ma-Ha

      Ca-Chiên-Diên – là một trong Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật

      Có tàibiện luận , được tôn xưng là bậc Đệ Nhất Luận Nghị.

(2) : Khu rừng Gunda  tại xứ Madhura của Vua Avantiputta .

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 84 :    MADHURÀ          *  MLH –  142

 

          Là ngự xa thượng đẳng hoàng gia

              Cùng đi khỏi Ma-Đu-Ra

       Với đại uy vệ một nhà Đại Vương

          Rồi thẳng đường đến nơi Tôn-giả

          An trú tại Gun-Đá khu rừng.

              Đến chỗ xe cộ phải dừng

       Vua liền xuống đi bộ cùng bầy tôi.

 

          Khi đến nơi, hỏi thăm Tôn-giả 

          Với những lời thanh nhã, mừng chào

              Rồi chọn một bên, ngồi vào,

       Vua A-Vanh-Tí khởi đầu thưa ra

          Với Đại Ca-Chiên-Diên Tôn-giả :

 

    – “ Thưa Tôn-giả Kách-Chá-Da-Na !    

              Các vị Bàn-Môn xưa xa

       Đã từng tuyên bố : ‘Chỉ Bà-La-Môn

          Là chủng tánh tối tôn, siêu việt

          Chủng tánh khác hạ liệt, suy đồi.

              Bàn-Môn (1)  là bạch chủng thôi,

       Các chủng tánh khác trên đời đều đen,

          Bà-la-môn được khen thanh tịnh

          Chủng tánh khác lấm dính, tiện dòng.

              Bàn-môn là con chính tông

       Của Phạm Thiên, vốn sinh trong miệng ngài.

          Bàn-môn này Phạm Thiên tạo tác,

          Đấng Phạm Thiên sinh các Bàn-môn,

              Thừa tự Phạm Thiên tối tôn.

       Ý Tôn-giả về Bàn-môn thế nào ? ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Tự hào như vậy

     ___________________________

 

(1) : Bàn-Môn  hay  Phạm-Chí  tức là Bà-La-Môn.

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 84 :    MADHURÀ          *  MLH –  143

 

          Thì điều ấy là lời nói thôi !

              Là những âm thanh trên đời

       Những người Phạm Chí dùng lời rêu rao

          Đánh giá cao giai cấp Phạm Chí

          Và khinh bỉ những giai cấp sau

              Đại Vương ! Ngài nghĩ thế nào

       Nếu Khách-Ti-Dá người giàu và sang

          Nhiều tài sản, bạc vàng, ngũ cốc

          Thường hay ban bổng lộc gia nhân,

              Có thể nào người thuộc phần

       Bàn-Môn, Sát-Đế-Lỵ (*) cần việc đây

          Vết-Sa, hay Sút-Đa (*) giai cấp

          Họ đến gặp, xin làm thân tùy

              Trung thành hầu hạ mọi thì     

       Thức khuya dậy sớm và thi hành liền

          Mọi mệnh lệnh chủ truyền, chí thú

          Làm đẹp lòng người chủ sớm trưa

              Khiến người ai cũng thích ưa

       Lời nói kính ái chủ vừa lòng ngay.

 

          Đại Vương này ! Trường hợp như thế     

          Theo Đại Vương có thể xảy ra ? ”.

 

         – “ Thưa Tôn-giả Kách-Cha-Na !

       Nếu có người Khách-Ti-Da sang giàu

          Có tài sản thuộc vào cự phú

     ___________________________

 

   (*) : Theo Bà-La-Môn, xã hội chia ra 4 giai cấp bất di bất dịch :

     1) Bà-la-môn ( Brahmana -giai cấp đứng đầu giữ phần nghi lễ, 

     tế tự ).

    2) Sát-Đế-Lỵ ( Khattiyà - giai cấp Vua chúa, quan quyền ) ;

    3) Phệ-Xá ( Vessa – các hạng Thương gia, buôn bán ) .

    4) Giai cấp cuối cùng bị áp chế, khinh rẻ nhất là Thủ-Đà-La

       (Suddà ) hay còn gọi là Chiên-Đà-La ( Candala ) .    

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 84 :    MADHURÀ          *  MLH –  144

 

          Thì có thể làm chủ nhân gia

              Của bốn giai cấp kể ra :

       Bàn-môn, Sát-Lỵ, Vết-Sa, Thủ-Đà  (1)

          Các người ấy trải qua hầu hạ

          Thật trung thành ròng rã sớm trưa

              Làm cho mọi người thích ưa

       Nói lời kính ái, chủ vừa lòng, thương ”.

 

    – “ Cũng như vậy, Đại Vương suy nghĩ

          Như thế nào nếu vị Bàn-Môn

              Không những dòng dõi đáng tôn

       Mà còn giàu có. Thật không thể nào

          Tính kể đến sự giàu sang đấy

          Thì có thể vị ấy nhận vào

              Những người gia nhân, mặc dầu

       Thuộc bốn giai cấp thanh cao hay hèn.

          Những người ấy bao phen hầu hạ

          Thật trung thành ròng rã sớm trưa

              Lời nói kính ái đáng ưa,

       Đại Vương biết, thấy, nghe chưa việc này ?

 

          Hoặc ở đây, thế nào ngài nghĩ

          Nếu có vị Phệ-Xá, Thủ-Đà

              Lại được giàu có vinh hoa

       Sống rất sung túc, cửa nhà đẹp sang,

          Nhiều tài sản, bạc vàng, ngũ cốc,

          Nhiều tài lộc, sung sướng biết bao

              Vị ấy có thể nhận vào

       Những người giai cấp thấp cao như là :

     ______________________________

 

(1) : Bốn giai cấp : Brahmana (Bà-la-môn hay Bàn-môn, Phạm-

      chí) , Khattiya  (Sát-Đế-Lỵ hay Sát-Ly),  Vessa  (Phệ-Xá) và 

      Sudda (Thủ Đà-La hay Thủ-Đà).  

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 84 :    MADHURÀ          *  MLH –  145

 

          Khách-Ti-Da, Bàn-môn, Phệ-Xá,

          Chanh-Đa-Lá… làm việc ngoài trong

              Trung thành hầu hạ hết lòng

       Thức khuya dậy sớm mà không nề hà

          Mọi lệnh của chủ nhà thực hiện

          Lời kính ái nên khiến đẹp lòng.

              Điều này có thể có không ? ”.

 

 – “ Tôn-giả ! Có thể có trong điều này.

          Nếu vị đây thuộc vào giai cấp

          Được đề cập : Sát-Lỵ, Bàn-môn,

              Phệ-Xá, Thủ-Đà thảy đồng

       Nếu là cự phú của trong của ngoài

          Tài sản, vàng đếm hoài không xuể,

          Thì có thể có những gia nhân

              Thuộc bốn giai cấp vừa phân,

       Trung thành hầu hạ ân cần sớm trưa,

          Vâng mệnh lệnh, làm vừa lòng chủ,

          Luôn chí thú làm việc hết lòng,

              Lời kính ái, chủ đẹp lòng

       Điều ấy có thể có trong đời thường ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Nếu mà như vậy     

          Thì bốn chủng tánh ấy ở đây

              Đồng đẳng hay không, thưa ngài ? ”.

 

 – “ Thật vậy Tôn-giả ! Nghĩ ngay như vầy

          Thời bốn chủng tánh này đồng đẳng,

          Trẫm thấy chẳng sai biệt gì đâu ! ”.

 

        – “ Thưa Đại Vương ! Như lúc đầu

       Tôi nói Phạm-chí trước sau bảo là

         ‘Bà-La-Môn mới là tối thượng’

          Phải được hiểu mường tượng như là

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 84 :    MADHURÀ          *  MLH –  146

 

              Những âm thanh được phát ra

       Tự mình xưng tụng chỉ ta mới tuyền

          Từ miệng đấng Phạm Thiên sinh hạ.

          Khách-Ti-Dá, Vết-Sá, Sút-Đa

              Đều là hạ liệt, xấu xa

       Âm thanh như vậy chỉ là thoáng mau.

 

          Thưa Đại Vương ! Thế nào ngài nghĩ ?

          Một người Sát-Đế-Lỵ hay là     

              Bàn-Môn, Phệ-Xá, Thủ-Đà :

       Sát sanh, lấy của người ta, mặc dầu

          Người ta không cho đâu mà lấy;

          Tâm tà vạy dâm dục; vọng ngôn,

              Lưỡng thiệt, phù phiếm, ác ngôn;

       Tham dục, sân hận, mãi tồn si mê,

          Chấp tà kiến mọi bề, mọi loại…

 

          Khi thân hoại mạng chung – có sanh

              Vào các đọa xứ chẳng lành ?

       Cõi dữ, ác thú đành rành hay không ?

          Hay là không thác sanh như vậy ?

          Hay Đại Vương nghĩ, thấy thế nào ? ”.

 

        – “ Thưa Tôn-giả ! Người phạm vào

       Giết chóc hại mạng, phạm vào tà dâm,

          Nói láo hay nói đâm thọc khác,

          Lời độc ác, phù phiếm ba hoa,

              Tham dục, sân hận, kiến tà,

       Thì dù Phạm-Chí hay là Vết-Sa,

          Sát-Đế-Lỵ, Sút-Đa… cả thảy

          Cũng đều phải nghiệp báo theo cùng,

              Sau khi thân hoại mạng chung

       Phải sa cõi dữ hãi hùng mà thôi !

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 84 :    MADHURÀ          *  MLH –  147

 

          Vào đọa xứ hay nơi ác thú

          Vào địa ngục chịu đủ cực hình.

              Trẫm nghĩ như vậy đinh ninh

       Và nghe La-Hán cao minh giảng vầy ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Lành thay điều ấy ! 

          Khi chính ngài nhận thấy như vầy

              Và nghe Thánh Tăng các ngài

       Bậc A-La-Hán giảng bày sâu xa.

          Nếu sự tình này là như vậy

          Thời bốn chủng tánh ấy ở đây

               Đồng đẳng hay không, thưa ngài ? ”.

 

 – “ Thật vậy, Tôn-giả ! Nghĩ ngay như vầy

          Thời bốn chủng tánh này đồng đẳng,

          Trẫm thấy chẳng sai biệt gì đâu ”.

 

         – “ Đại Vương ! Ngài nghĩ thế nào

       Người Sát-Đế-Lỵ thanh cao, hay là

          Bà-La-Môn, Vết-Sa, Sút-Đá

          Là những người hiền giả thiện tâm,

              Từ bỏ sát sanh, tà dâm,

       Từ bỏ trộm cướp, sai lầm vọng ngôn,

          Bỏ đâm thọc, bỏ luôn ác khẩu,

          Bỏ nói láo, phù phiếm ba hoa,

              Từ bỏ tham dục, sân tà,

       Luôn có chánh kiến, từ hòa ung dung,

          Khi thân hoại mạng chung đã tới

          Thì có được Thiên giới sinh ngay ?

              Có sinh thiện thú, đời này ?

       Hoặc không thể thác sanh, hay thế nào ?       

          Đại Vương nghĩ ra sao việc ấy ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Trẫm thấy rõ là

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 84 :    MADHURÀ          *  MLH –  148

 

              Bram-Ma-Na, Khách-Ti-Da              

       Hay là Vết-Sá, Sút-Đa… người nào

          Các giới hạnh thanh cao vâng giữ,

          Từ bỏ sự sát sanh nhỏ, to

              Từ bỏ lấy của không cho,

       Từ bỏ dâm hạnh nguyên do dục tà,

          Bỏ nói láo hay là đâm thọc

          Lời nói độc, phù phiếm… tránh xa

              Tham dục, sân hận diệt qua

       Luôn có chánh kiến, từ hòa ung dung

          Khi thân hoại mạng chung, sinh tới

          Cõi thiện thú, Thiên giới, đời này.

              Đối với trẫm là như vầy

       Và nghe La-Hán các ngài tán dương ”.

 

    – “ Thưa Đại Vương ! Lành thay điều ấy !

          Khi chính ngài nhận thấy như vầy

              Và nghe Thánh Tăng các ngài

       Bậc A-La-Hán giảng bày sâu xa.

          Nếu sự tình này là như vậy

          Thời bốn chủng tánh ấy ở đây

               Đồng đẳng hay không, thưa ngài ? ”.

 

 – “ Thật vậy, Tôn-giả ! Nghĩ ngay như vầy

          Thời bốn chủng tánh này đồng đẳng,

          Trẫm thấy chẳng sai biệt gì đâu ”.

 

        – “ Thưa Đại Vương ! Như lúc đầu

       Tôi nói Phạm-chí trước sau bảo là

         ‘Bà-La-Môn mới là tối thượng’

          Phải được hiểu mường tượng như là

              Những âm thanh được phát ra

       Tự mình xưng tụng chỉ ta mới tuyền

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 84 :    MADHURÀ          *  MLH –  149

 

          Từ miệng đấng Phạm Thiên sinh hạ.

          Khách-Ti-Dá, Vết-Sá, Sút-Đa

              Đều là hạ liệt, xấu xa

       Âm thanh như vậy chỉ là thoáng mau.

 

          Thưa Đại Vương ! Thế nào ngài nghĩ ?

          Một người Sát-Đế-Lỵ hay là     

              Bàn-Môn, Phệ-Xá, Thủ-Đà :

       Lén lút đột nhập vào nhà người ta

          Hoặc cướp giật tiền và đồ đạc

          Phục kích các đường cướp, giết người

              Hoặc là tư thông vợ người…

       Có người bắt được, tức thời giải ngay

          Đến trước ngài, trình bày tất cả :

 

         ‘Tâu Bệ Hạ ! Kẻ trộm cướp này

              Làm hại uy danh của ngài 

       Xin hãy hình phạt kẻ này cho mau’.    

          Đại Vương như thế nào xử gã ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả Kách-Chá-Da-Na !

              Trẫm sẽ theo Luật, phán ra

       Tra tấn kẻ ấy hay là chém ngay,

          Hoặc tẩn xuất kẻ này khỏi nước

          Hoặc từng bước y luật dụng hình

              Tùy theo tội trạng phát sinh

       Vì sao vậy ? Vì tự mình gây ra.

          Danh xưng : Khách-Ti-Da, Phạm Chí…

          Mà vốn dĩ được gọi xưa nay

              Danh xưng ấy biến mất ngay,

       Chỉ gọi ‘tên trộm cướp’ này mà thôi ”.

 

    – “ Nếu mà sự tình đời như vậy

          Thời bốn chủng tánh ấy ở đây

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 84 :    MADHURÀ          *  MLH –  150

 

               Đồng đẳng hay không, thưa ngài ? ”.

 

 – “ Thật vậy, Tôn-giả ! Nghĩ ngay như vầy

          Thời bốn chủng tánh này đồng đẳng,

          Trẫm thấy chẳng sai biệt gì đâu ”.

 

        – “ Thưa Đại Vương ! Như lúc đầu

       Tôi nói Phạm-chí trước sau bảo là

         ‘Bà-La-Môn mới là tối thượng’

          Phải được hiểu mường tượng như là

              Những âm thanh được phát ra

       Tự mình xưng tụng chỉ ta mới tuyền

          Từ miệng đấng Phạm Thiên sinh hạ.

          Khách-Ti-Dá, Vết-Sá, Sút-Đa

              Đều là hạ liệt, xấu xa

       Âm thanh như vậy chỉ là thoáng mau.

 

          Thưa Đại Vương ! Thế nào ngài nghĩ ?

          Một người Sát-Đế-Lỵ hay là     

              Bàn-Môn, Phệ-Xá, Thủ-Đà :

       Cạo bỏ râu tóc, xuất gia tu hành

          Đắp ca-sa, gia đình từ bỏ

          Sống không có gia đình, một mình

              Thọ trì giới luật tịnh thanh

       Sống đời Phạm hạnh, thực hành thiền-na

          Chỉ ăn ngọ, trì qua thiện pháp

          Thì Đại Vương sẽ đáp thế nào ?

              Đối xử vị ấy ra sao ? ”.

 

 – “ Thưa Tôn-giả ! Trẫm sẽ mau đứng liền

          Thỉnh ngồi trên pháp tòa tử tế

          Kính đảnh lễ vị ấy trên tòa

              Cúng dường ‘tứ vật dụng’ là :

       Y phục, vật thực, sàng tòa, thuốc men

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 84 :    MADHURÀ          *  MLH –  151

 

          Rồi trẫm bèn chu toàn sắp đặt

          Sự bảo vệ, mọi mặt hộ trì

              Che chở đúng pháp mọi thì

       Danh xưng lúc ấy của vì xuất gia

          Không là Khách-Ti-Da, Phạm-Chí,

          Hay là vị Phệ-Xá, Thủ-Đà,

              Nay biến mất, không như là

       Trước gọi khinh thị hay là kính tôn

          Chỉ gọi là ‘Sa-Môn’ vị ấy ”. 

 

    – “ Nếu như vậy, bốn chủng tánh đây

               Đồng đẳng hay không, thưa ngài ? ”.

 

 – “ Thật vậy, Tôn-giả ! Nghĩ ngay như vầy

          Thời bốn chủng tánh này đồng đẳng,

          Trẫm thấy chẳng sai biệt gì đâu ”.

 

        – “ Thưa Đại Vương ! Như lúc đầu

       Tôi nói Phạm-chí trước sau bảo là

         ‘Bà-La-Môn mới là tối thượng’

          Phải được hiểu mường tượng như là

              Những âm thanh được phát ra.

       Họ đã tuyên bố : ‘Chỉ Bà-La-Môn

          Là chủng tánh tối tôn, siêu việt

          Chủng tánh khác hạ liệt, suy đồi.

              Bàn-Môn là bạch chủng thôi,

       Các chủng tánh khác trên đời đều đen,

          Bà-la-môn tự khen thanh tịnh

          Chủng tánh khác lấm dính, tiện dòng.

              Bàn-môn là con chính tông

       Của Phạm Thiên, vốn sinh trong miệng ngài.

          Bàn-môn này Phạm Thiên tạo tác,

          Đấng Phạm Thiên sinh các Bàn-môn,

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 84 :    MADHURÀ          *  MLH –  152

 

              Thừa tự Phạm Thiên tối tôn.

       Tự mình xưng tụng Bàn-Môn quá đà ”.

 

          Được nghe vậy, vua Ma-Thu-Rá

          A-Vanh-Ti-Pút-Tá – thưa qua

              Với ngài Kách-Chá-Da-Na

     ( Ca-Chiên-Diên  cũng chính là ngài đây ) :

 

    – “ Vi diệu thay ! Lành thay Tôn-giả ! 

          Ngài Ma-Ha Kách-Chá-Da-Na !

              Thưa Tôn-giả ! Hy hữu thay !

       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm

          Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối,

          Đem đèn sáng vào tối như bưng

              Để ai có mắt mở bừng

       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu .

          Cũng như thế, nhiệm mầu Chánh Pháp

          Được Tôn-giả giải đáp, giảng ra.

              Con xin quy ngưỡng thiết tha

       Quy y Tôn Giả Kách-Cha-Da-Nà,

          Quy y Pháp sâu xa đáng kính

          Quy y Tăng thanh tịnh, phước đầy.

 

              Mong ngài chấp nhận con nay

       Được làm đệ tử, vun đầy thiện duyên

           Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục

           Kể từ nay đến lúc mạng chung ”.

 

       – “ Thưa Đại Vương ! Xin hãy đừng

       Quy y bần đạo, hãy dừng ý đây.

          Hãy quy y bậc Thầy uyên bác

          Thiên Nhân Sư, Đại Giác, Phật Đà,             

              Tôi cũng quy y Phật Đà ”.

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 84 :    MADHURÀ          *  MLH –  153

 

  – “ Thưa Tôn Giả Kách-Cha-Na ! Hiện thời

          Bậc Thế Tôn, Thầy Trời Người đó

          Hiện đang trú ở chỗ nào đây ? ”.

 

        – “ Thưa Đại Vương ! Đáng tiếc thay !

       Đấng Vô Thượng Sĩ ngày nay không còn

          Đức Thế Tôn Niết-bàn đã nhập

          Tứ Chúng khắp vẫn quy y Ngài

              Quy y Pháp & Tăng đức tài

       Đại Vương nên hướng về Ngài quy y ”.

 

    – “ Thưa Tôn Giả ! Vậy thì với trẫm

          Có niềm tin sâu thẳm, thiết tha

              Nếu nghe Thế Tôn ở xa

       Mười do-tuần – dô-cha-na – như vầy   (  yojana )

          Trẫm cũng sẽ đi ngay đến đấy

          Để yết kiến, lễ lạy Phật Đà

              Bậc Chánh Đẳng Giác từ hòa,

       Đại A-La-Hán, cũng  là Thế Tôn.

 

          Nếu nghe đồn Phật đang an trú

          Hai, ba, bốn, năm chục do-tuần

              Thì trẫm cũng quyết định luôn

       Đến yết kiến Phật, thấm nhuần pháp âm.

 

          Nay Phật đã song lâm tịch diệt

          Trẫm chí thiết vọng bái quy y

              Đấng tịch diệt Chánh Biến Tri,

       Quy y Pháp Bảo, quy y Tăng Già,

           Mong Tôn Giả Kách-Cha-Da-Ná

           Nhận nơi con với cả lòng thành

               Quy y Tam Bảo tịnh thanh

       Từ nay đến hết đời mình chẳng thay ./-

 

Trung Bộ ( Tập 3 )  Kinh 84 :    MADHURÀ          *  MLH –  154

 

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt  Kinh  số 84  :  MADHURÀ   –

                                        MADHURÀ Sutta  )




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2012(Xem: 5339)
法住天寒極地空花如雪鎖禪扃生死遙程幾許夢回故里 雲行色没浮漚暮影凝烟参晚课唄吟長夜有時聲斷洪洲 Âm: Pháp Trụ thiên hàn cực địa, không hoa như tuyết tỏa thiền quynh, sinh tử diêu trình, kỷ hứa mộng hồi cố lý. Vân hành sắc một phù âu, mộ ảnh ngưng yên tham vãn khóa, bái ngâm trường dạ, hữu thời thanh đoạn hồng châu Ôn dịch nghĩa: Cực thiên Bắc, tuyết dồn lữ thứ, sắc không muôn dặm hoa vàng, heo hút đường về, non nước bốn nghìn năm soi nguồn đạo PHÁP Tận hồng châu, chuông lắng đồi thông, bào ảnh mấy trùng sương đẫm, mênh mông sóng cuộn, dòng đời quanh chín khúc rọi bóng phù VÂN
01/10/2012(Xem: 4457)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3508)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4221)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 11420)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 11329)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3278)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5358)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3564)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3657)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]