Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. Kinh Gò Mối

19/05/202008:10(Xem: 9664)
23. Kinh Gò Mối

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


23. Kinh GÒ MỐI

( Vammika sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời nọ, Thế Tôn an trụ

          Kỳ Viên Tự  – Chê-Tá-Va-Na

              Do Cấp-Cô-Độc tín-gia

A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka – cúng dàng

          Lúc bấy giờ, có hàng Tôn-giả

          Ku-Ma-Rá  hay  Káp-Sa-Pa  (1)

              Trú tại Anh-Thá-Va-Na  (2).

       Khi đêm gần mãn, sáng lòa hào quang

          Một vị Thiên hiện sang trú xứ

          Là tịnh xứ Anh-Thá-Va-Na

              Của Tôn giả Ku-Ma-Ra

       Đến rồi  vịấy đứng qua bên ngài

          Vị Thiên này liền nêu câu hỏi

          Vàđã nói với Tôn giả rằng :

           “ Này Tỷ Kheo ! Có biết chăng

       Gò mối đã phun khói hằng đêm thâu

          Còn ban ngày như châu chiếu sáng.

          Một Bàn-môn (3) cai quản nơi đây

              Nói như sau : ‘ Kẻ trí này !

       Hãy cầm gươm bén đào ngay cái gò ’.

          Người trí chẳng đắn đo, đào mãi

          Thấy then cửa, báo lại Bàn-môn,

              Rồi nghe lệnh Bà-la-môn :

 – ‘ Hãy lấy then cửa đã chôn dưới này

    _________________________

(1) : Tôn giả Kumara Kassapa .  (2) : Địa phương tên Andhavana .

 ( ) : Bàn-môn  hay Phạm-chí  tức là Bà-La-Môn . 

Trung Bộ  (Tập 1)    Kinh 23 :  GÒ MỐI            *   MLH  –334

 

          Rồi tiếp tục đào ngay xuống nữa ’.

          Kẻ trí lựa vị tríđào liền

              Thấy một con nhái, bắt lên

       Bàn-môn ra lệnh đào thêm xuống hoài

          Người trí này lại đào tất tả

          Thấy con đường hai ngã dưới đây.

        – ‘ Thưa Tôn-giả ! Ở dưới này

       Con đường hai ngãđã bày lộ nên’.   

 – ‘Hãy lấy lên con đường hai ngã

          Rồi đào tiếp với vá, xẻng mang’.

              Người tríđào thấy rõ ràng

       Một đồ lọc sữa, liền mang lên liền.

          Lại cần chuyên đào thêm, thấy rõ

          Một con rùa, rồi có dao phay

              Theo lệnh Bà-la-môn này

       Người trí lấy những vật đây lên bày.

Đào tiếp nữa, thấy ngay miếng thịt

     – ‘ Hãy lấy lên miếng thịt đi nào !

              Rồi hãy đào tiếp xuống sâu ’.

       Vị Bàn-môn nọ lại mau truyền lời

          Người tríđào tiếp, thời thấy có

          Con rắn hổ ; liền báo điều đây.

              Vị Bà-la-môn nói ngay :

  – ‘Hãy để con rắn hổ này được yên,

          Đừng đụng chạm, làm phiền rắn hổ,

          Hãy đảnh lễ rắn hổ thành tâm’.      

 

              Này Tỷ Kheo ! Hãy thân lâm

       Đến chỗ Đức Phật uyên thâm diệu mầu

          Để hỏi Ngài những câu hỏi ấy

          Ngài dạy sao, như vậy thọ trì.

Trung Bộ  (Tập 1)    Kinh 23 :  GÒ MỐI            *   MLH  –335

 

              Ta không thấy trên đời ni

       Dù là Ma, Phạm (1), các vì Chư Thiên

          Chúng Sa-môn hay riêng Phạm-chí(2)

          Khắp chư Thiên cho chí loài Người

              Chẳng ai có thể trả lời

       Những câu hỏi ấy, trừ nơi Phật Đà

          Hoặc đệ tử Tăng-già của Phật

          Hay ai nghe từ Phật và Tăng ”.

 

              Nói xong vị Thiên biến thân

       Riêng vị Tôn-giả tần ngần hồi lâu.

          Khi đêm mãn, đến mau tịnh-thất

          Của Đức Phật, đảnh lễ, ngồi bên

              Hướng về Thế Tôn, thưa liền

       Chi tiết việc gặp vị Thiên đêm rồi

Đoạn tức thời hỏi về nghi vấn :    

    – “ Xin Thế Tôn hướng dẫn giải nghi :     

              Gò mối ởđây là gì ?

       Ban đêm phun khói, ngày thì sáng trưng

          Là cái gì với từng nghĩa lý ?

          Ai Bàn-môn ? Người trí là ai ?

              Cái gì là gươm bén này ?   

Đào lên có nghĩa ởđây là gì ?

          Sao then cửa ? Là gì con nhái ?

          Đường hai ngãý lại là gì ?

              Cái đồ lọc sữa là chi ?

       Con rùa, miếng thịt nghĩa gìởđây ?

          Con dao phay và con rắn hổ

          Nghĩa gì như câu đố nêu ra ? ”.

    ____________________________

(1) : Ma Vương  và Phạm Thiên . 

  (2) : Bàn-môn  hay Phạm-chí  tức là Bà-La-Môn . 

Trung Bộ  (Tập 1)    Kinh 23 :  GÒ MỐI            *   MLH  –336

 

        – “ Này Tỷ Kheo Ku-Ma-Ra !

       Gò mối được hiểu nghĩa là cái thân               

          Do bốn đại hợp thành, tăng trưởng

          Cha mẹ sanh, nuôi dưỡng cháo cơm

              Vô thường, biến hoại từng cơn

       Phấn toái, hoại diệt, giả chơn đoạn trừ.

       – Này Tỷ Kheo ! Còn như công chuyện 

          Làm ban ngày, khi đến ban đêm

              Suy tầm, suy nghĩ càng thêm

       Như vậy phun khói ban đêm nghĩa này.

       – Còn cái gìđêm hay suy nghĩ

          Để ban ngày thì chỉ thực hành

              Về thân, miệng, ýđua tranh

       Ban ngày chói sáng sẵn dành, nghĩa đây.

       – Bà-la-môn ởđây để chỉ

          Bậc Như Lai Toàn Trí vô ngần

              Chánh Đẳng Giác , A-Ra-Hăng (1)

    – Người trí để chỉ về phần tiếp theo    

          Là Hữu Học Tỷ Kheo các vị.

       – Gươm bén chỉ trí tuệ Thánh nhân

           – Đào lên đồng nghĩa tinh-cần   

    – Then cửa có nghĩa là phần vô-minh                  

          Then cửa, người trí rinh lên khỏi

           Là từ bỏ, dứt mọi vô minh .

           – Kẻ trí cầm gươm của mình      

Đào lên, có nghĩa vô minh diệt liền.

       – Con nhái là hận hiềm, phẫn nộ

Đem nhái lên, dứt nộ sân ngay.

           – Con đường hai ngãởđây

    _____________________________

  (1) : Araham phiên âm là A-La-Hán , một trong Thập Hiệu Phật .

Trung Bộ  (Tập 1)    Kinh 23 :  GÒ MỐI            *   MLH  –337

 

Đồng nghĩa nghi hoặc , phải rày trừ nghi.

       – Đồ lọc sữa này thì để chỉ

          Năm triền cái đích thị sai lầm       

             ‘Dục tham triền cái’ âm thầm

       Rồi ‘sân triền cái’ , ‘hôn trầm thụy miên’

         ‘Trạo cử, hối’ đi liền ‘nghi hoặc’.

          Đồ lọc sữa đem tất lên ngay

              Là bỏ năm triền cái đây

       Cầm gươm, kẻ tríđào ngay, nghĩa này.

       – Còn rùa đây chỉ năm thủ uẩn :

          Sắc, thọ, tưởng thủ uẩn làđây                

              Hành, thức thủ uẩn như vầy

       Cầm gươm trí tuệđào ngay, diệt trừ.

       – Con dao phay nghĩa như năm dục

          Được trưởng dưỡng liên tục đêm ngày,

              Các ‘sắc’ do ‘mắt’ nhận ngay

       Khả lạc, khả hỷ, sắc này đáng yêu

          Và kích thích sớm chiều lòng dục

          Nó hấp dẫn mọi lúc mọi nơi.

             ‘Tiếng’ do ‘tai’ nhận thức rồi

       Các ‘hương’ do ‘mũi’ đồng thời nhận ngay,

         ‘Vị’ do ‘lưỡi’ hằng ngày nhận thức              

         ‘Xúc’ do ‘thân’ cảm xúc sớm chiều

              Khả hỷ, khả lạc, đáng yêu

       Kích thích lòng dục, mọi điều khốn thay !

          Con dao phay đào lên vất đó

          Là từ bỏ năm dục lớn này.

           – Miếng thịt có nghĩa ởđây

       Là hỷ tham. Lấy lên ngay vất nằm

          Là từ bỏ hỷ tham hiện có.

       – Rắn hổđó đồng nghĩa Tỷ Kheo      

Trung Bộ  (Tập 1)    Kinh 23 :  GÒ MỐI            *   MLH  –338

 

Đã diệt lậu-hoặc dính đeo

     ( Đã chứng Thánh quả, đáng gieo phước điền )

          Để rắn hổ được yên, chớđụng

          Hãy đảnh lễ và cúng dường ngay

Đó làý nghĩa như vầy .

     ( Tôn kính đảnh lễ các ngài Thánh Tăng ).

 

          Thế Tôn bằng biện tài vô ngại

Đã giảng giải nghĩa lý rõ ràng

              Chư Tỷ Kheo rất hân hoan

       Cung kính tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

 

*

*   *

 

 

(  Chấm dứt  Kinh số 23 : GÒ MỐI–  VAMMIKA  Sutta  )

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2012(Xem: 4387)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3438)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4151)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 10984)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 10943)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3193)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5134)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3495)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3567)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
08/04/2012(Xem: 3346)
Kính thưa Thầy, Thầy về cõi Phật lòng thanh thoát. Con ở dương trần dạ tiếc thương. Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 năm đầu tiên vắng Thầy, đọc lại « Nữa chữ cũng là Thầy » để các thế hệ học trò cũ của Thầy mãi mãi nhớ ơn Thầy, người giáo viên nhân dân, kỹ sư tâm hồn, người ươm mầm non tương lai cho quê hương, đất nước…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]