Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

142. Kinh Phân Biệt Cúng Dường

19/05/202011:36(Xem: 11916)
142. Kinh Phân Biệt Cúng Dường

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


142. Kinh  PHÂN BIỆT CÚNG DƯỜNG

( Dakkhinàvibhanga sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả

          Giữa dòng họ Sắc-Dá (Thích-Ca),  (1)

              Ca-Tỳ-La-Vệ (1) trú qua

       Tại Tinh Xá Ni-Gô-Tha (2) một miền

         (Ni-Câu-Luật Thọ Viên) hoằng đạo.

 

          Vị Di-mẫu là Gô-Ta-Mi    (3)

             (Hay gọi là Kiều-Đàm-Di)

       Ma-Ha-Pa-Chá-Pa-Ti nghiêm hiền

          Để gieo duyên cúng dường Đức Phật

          Tự tay dệt, nhuộm, cắt, may y.

              Xong đến, lễ đấng Toàn Tri

       Một bên ngồi xuống, tức thì thưa qua :

 

    – “ Bạch Phật Đà ! Cặp y đặc biệt

          Do con dệt, rồi nhuộm, cắt, may

              Xin dâng đến Thế Tôn Ngài,

       Mong Ngài từ mẫn, y này nhận cho ”.

    _____________________________

 

( ) : Thành Ca-Tỳ-La-Vệ  – Kapilavatthu  – là thủ phủ của vương

       triều dòng họ Sakya (Thích Ca).

(2) : Tinh Xá Nigrodha – Ni-Câu-Luật Thọ Viên  – ở ngoại thành

      Kapilavatthu.

(3) : Thứ Hậu của Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) cũng là Dì ruột

      (Di-mẫu) của Đức Phật : Bà MahàPajapati Gotami  (Đại Ái-

      Đạo Kiều-Đàm-Di). Vì Hoàng hậu MahàMaya, 7 ngày sau khi

     sinh đã thăng hà nên Di-mẫu đã nuôi dưỡng, tận tình chăm sóc

      Thái-tử Siddhattha (Sĩ-Đạt-Ta) tức Đức Phật sau này.

 

          Nghe nguyên do nhiệt thành tâm đạo

          Đức Thế Tôn liền bảo người dì :

 

        – “ Này Di-mẫu Gô-Ta-Mi !

       Hãy dâng y đến uy nghi Tăng-Già.

          Bà cúng dường Săng-Ga thanh tịnh,

          Ta cũng được tôn kính, ngưỡng vì ”.

 

              Đại Ái-Đạo Kiều-Đàm-Di

       Lần nữa, kính bạch với vì Thế Tôn : 

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Cặp y đặc biệt

          Chính tay con đã dệt, nhuộm, may

              Xin Ngài nhận cho y này ”.

 

       Phật lại khuyên dâng y này đến Tăng.

          Lần thứ ba muốn dâng đến Phật

          Cặp y thực hiện rất công phu,

              Nhưng mà đức Thiên Nhân Sư

       Vẫn khuyên dâng y đến Chư Tăng-Già :

 

    – “ Hãy dâng đến tịnh hòa Tăng Bảo

          Vì cúng dường Tăng Bảo (Săng-Ga)  ( Sangha )

              Thời Ta cũng được hưởng qua

       Sự cung kính, và Săng-Ga cũng vầy ”. 

 

          Nghe nói vậy, tâm ngay trong sạch

          A-Nan bạch đức Chánh Biến Tri :

        – “ Xin Thế Tôn hãy nhận y   

       Để Di-mẫu Gô-Ta-Mi vui lòng

          Vì Bà đã có công nuôi dưỡng

          Ân đức thật vô lượng với Ngài.

              Bà là dưỡng-mẫu quý thay !

       Kế mẫu, di mẫu của Ngài trước nay.

          Vì mẹ ruột của Ngài mất sớm

          Ngài bú mớm bằng sữa của Bà.

              Thế Tôn cũng giúp cho Bà,

       Nhờ có Phật Bảo mà Bà tín tâm 

          Quy y Phật, Pháp, Tăng – trì thọ

          Ngũ giới cấm : Từ bỏ sát sanh,

              Từ bỏ trộm cướp chẳng lành,

       Từ bỏ tà hạnh, bỏ nhanh những lời

          Nói láo và xa rời mê đắm

          Các loại rượu và lắm chất say.

              Có lòng tịnh tín đủ đầy

       Niềm tin Tam Bảo sâu dày bất di.

          Đức Bà Kiều-Đàm-Di cao cả

          Tức Ma-Ha Pa-Chá-Pa-Ti

              Với Giáo Pháp không còn nghi,

       Nương Tứ Diệu Đế diệu vi, hành trì

          Không còn nghi con đường Bát Chánh

          Giữ giới luật bậc Thánh tán dương.

              Xin Thế Tôn nhủ lòng thương

       Nhận y Di-mẫu cúng dường Thế Tôn ”.

 

          Đức Phật liền ôn tồn nói lại :

 

    – “ Thật như vậy, này A-Nan-Đa !

              Nếu do nhờ một người mà

       Khiến một người khác thiết tha ân cần

          Quy y Phật Pháp Tăng, vâng giữ

          Không có sự đền ơn nào bằng

              Với vị được gọi người ân

       Dù là đảnh lễ, ân cần chắp tay,

          Những việc thích hợp hay dâng cúng

          Như dâng y để cúng dường, và

              Thức ăn, dược phẩm, sàng tòa.

       Nếu do người nào đó mà người kia

          Có quyết tâm xa lìa tà ác,

          Giữ ngũ giới, làm các việc lành.

              Nếu do nhờ một người lành

       Mà một người khác phát sanh trọn đời

          Tin kiên cố ba ngôi Tam Bảo,

          Nương vào đạo, giới luật thanh cao.

 

              Hay là nhờ một người nào

       Mà người khác không phạm vào hoài nghi

          Tứ Diệu Đế – hoài nghi Khổ đế,

          Tập & Diệt và Đạo đế mọi thì,

              Con đường Thánh đạo tám chi.

       Ta nói rằng : ‘Với người vì thọ ơn

          Không có sự đền ơn nào xứng

          Với người kia, dù đứng thẳng người

              Chắp tay, đảnh lễ – đồng thời 

       Làm việc thích hợp, nói lời tán dương,

          Hay cúng dường đủ đầy tứ sự.

 

          A-Nan-Đa ! Thứ tự nên tường

              Có mười bốn loại cúng dường 

       Phân loại theo hạng người đương hướng vào :

      –  Cúng dường bậc thanh cao ưu thắng

          Như Toàn Tri, Chánh Đẳng Giác, và  

              Đại A-La-Hán, Phật Đà,

       Cúng dường thứ nhất kể ra như vầy.

      –  Bậc thứ hai là Độc Giác Phật

         (Bích-Chi Phật tức Bách-Chê-Ka)    ( Pacceka ) 

          –  Đến bậc cúng dường thứ ba

       Đệ tử của Phật, A-La-Hán toàn.

      –  Các vị đang trên đường để chứng       

          A-La-Hán (*) đáng cúng thứ tư. 

          –  Chứng quả Bất Lai (*) an như

       Thứ năm đáng thọ hữu dư cúng dường.

      –  Còn cúng dường bậc đang ròng rã

          A-Na-Hàm (*) đạo quả hướng vào

              Cúng dường thứ sáu thanh cao.

   –  Cúng dường các bậc chứng vào Nhất Lai

         (Tư-Đà-Hàm) (*) bậc này thứ bảy. 

      –  Các vị hãy còn trên con đàng

              Chứng quả Nhất Lai, là hàng

       Đáng cúng thứ tám. Còn hàng Thất Lai

      –  Dự Lưu quả, bậc này thứ chín.

      –  Bố thí chính vị đang trên đàng

              Chứng Dự Lưu, là cúng dàng  

       Thứ mười, phân loại theo hàng thấp cao.  

 

      –  Bố thí vào các vị ngoại học  (**)

          Đã ly tham trong các dục tà 

              Là thứ mười một kể ra.

   –  Bố thí kẻ phàm tục mà kẻ đây

          Giữ giới luật, mười hai được kể.

      –  Còn bố thí cho kẻ phàm phu

              Theo ác giới, không hề tu

       Mười ba bố thí phạm trù nêu danh.       

    ____________________________

 

*  Bốn thánh quả Thinh-Văn-Giác  : (1) :Tu-Đà-Hoàn ( Sotàpatti )   hay Dự Lưu quả hoặc Thất Lai quả (chỉ còn sinh lại thế gian 7 lần) (2) : Tư-Đà-Hàm ( Sakadàgàmi ) hay Nhất Lai quả (sinh lại 1 lần) 

(3) : A-Na-Hàm ( Anàgàmi ) hay Bất Lai quả ( sinh lên cung trời

      Tịnh Cư (Suddhàvàsa) để tiếp tục tu và nhập Vô Dư Niết Bàn .   

(4) : A-La-Hán ( Araham ) được dịch là Vô Sanh , Vô Học , Ứng

       Cúng, sau khi mạng chung sẽ tấn nhập Vô Dư Niết Bàn.

(**) : Những vị ngoại học : Bariraka.

 

          Bố thí đến bàng sanh các loại                

          Thứ mười bốn phân loại như vầy.

 

              Này A-Nan ! Phải nhớ đây :    

       Sau khi bố thí các loài bàng sanh

          Hy vọng dành trăm phần công đức.

          Đạt ngàn phần công đức do từ

              Bố thí cho những phàm phu

       Sống theo ác giới. Còn như cúng dàng

          Đến các hàng phàm phu giữ giới

          Trăm ngàn lần hưởng tới phước toàn.

              Với người ngoại học cúng dàng

       Hy vọng đạt tới muôn ngàn ức ngay

          Phần công đức người này kết quả.

 

          Đang trên đường chứng quả Đà-Hoàn

              Với các vị này, cúng dàng

       Vô lượng công đức sẽ mang đến liền,

          Còn nói gì mãn viên Thánh Chúng

          Chứng Dự Lưu, sắp chứng Nhất Lai

             (Tư-Đà-Hàm đạo, quả này).

       Sắp chứng, đã chứng Bất Lai đủ đầy

         (A-Na-Hàm quả) hay sắp chứng

          Và đã chứng La-Hán (Vô sanh,

              Ứng Cúng, Vô Học tịnh thanh.

 

       Còn nói gì đến quả lành Bích-Chi

         (Duyên Giác Phật hay vì Độc Giác).

          Còn nói gì đến các Như Lai,

              Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác này

       Vô lượng công đức cho ai cúng dàng.

 

          Này A-Nan ! Cúng dường bảy loại

          Cho Tăng Chúng thì loại đầu tiên

 

          *  Với hai Tăng Chúng hiện tiền

       Có vị Thượng thủ phước điền Như Lai. 

 

     *   Loại thứ hai, cả hai Tăng Vị

          Tỷ Kheo Tăng và Tỷ Kheo Ni

              Khi không còn đấng Toàn Tri.

 

     *   Còn loại cung dưỡng thuộc vì thứ ba

          Tỷ Kheo Tăng Săng-Ga (1) các vị.

 

     *   Tỷ Kheo Ni các vị Săng-Ga

              Cúng dường thứ tư trải qua.

 

   *  Cúng dường nhưng lại nói ra : “Mong là

          Chư Tăng-Già chỉ định một số

          Tỷ Kheo Tăng, một số vị Ni”,

              Cúng dường thứ năm cần tri.

 

 *  “Xin Tăng chỉ định số vì Tỷ Kheo”,

          Thứ sáu cúng dường theo định hướng.

 

      *  Muốn cung dưỡng nhưng xin Tăng-Già :

             “Mong Tăng Chúng chỉ định ra

       Tỷ Kheo Ni một số mà chứng trai”,

          Cúng dường này thứ bảy được kể.

 

          Này A-Nan ! Hậu thế lộ đồ

              Sẽ có những hạng người thô

       Chuyển tánh – Gô-Trá-Phu-Nô (2) tức là 

          Biểu hiện y ca-sa ở chỗ           

          Mảnh vải vàng quanh cổ & cánh tay

              Theo ác giới, ác pháp rày

      (Không còn Tăng Chúng đủ đầy giới răn)

          Muốn bố thí họ bằng tâm thiện

    _________________________

 

   (1) : Sangha – Tăng-Già.  (2) : Hạng chuyển tánh – Gotrabhuno.

 

          Có tín thành, cũng khiến phước sanh.

              A-Nan ! Khi Ta nói rằng

       Cúng dường trong sạch  đến Tăng Chúng là

          Vô số và vô lượng phước báu.

          Ta không bảo bằng phương tiện gì

              Mà một sự bố thí chi

       Phân loại theo sự thí vì cá nhân

          Tức là sự ‘cá nhân tuyển thí’

          Phước không bằng ‘Tăng thí cúng dàng’,

              Dâng đến Đại chúng Tăng Đoàn

       Có kết quả lớn vô vàn, hơn xa.

 

          A-Nan-Đa ! Bốn sự thanh tịnh

          Của các loại tâm tín cúng dàng.

              Sao là bốn ? Hiểu rõ ràng :

   –  Có loại cung dưỡng bởi đàng người cho

          Tâm tín thành, nhưng do người nhận

          Không thanh tịnh, tham lẫn, sân si.

 

          –  Còn loại cúng dường thứ nhì

       Người cho bất tịnh, chẳng vì tín tâm

          Nhưng người nhận thân tâm thanh tịnh.

 

      –  Loại thứ ba bất tịnh cả hai

              Người cho và người nhận này

       Đều chẳng trong sạch, lòng đầy tà gian.

 

      –  Loại thứ tư hai đàng cho, nhận

          Đều thanh tịnh, tinh tấn tu hành.

 

         *  Sao là cúng dường tịnh thanh

       Bởi người cho, nhưng không dành người kia ?

          Bởi người nhận xa lìa thiện pháp

          Không giữ giới, uế tạp, bất lương.

 

 

         * Thứ hai là loại cúng dường

       Người nhận giới đức, thường thường tịnh thanh

          Nhưng người cho thực hành ác giới

          Theo ác pháp, sống với dối gian.

 

           * Thứ ba là loại cúng dàng 

       Không thanh tịnh bởi hai đàng nhận, cho ?

          Cả người cho và người nhận tới

          Theo ác giới, ác pháp, gian tà.

 

           * Thứ tư, loại cúng dường mà

       Người cho, người nhận đều là tịnh thanh 

          Đều giữ giới. làm lành lánh dữ

          Theo thiện pháp, tránh sự gian tà.    

 

              A-Nan-Đa ! Như vậy là   

       Phân loại bốn sự đàn-na cúng dường ”.

 

          Đấng Pháp Vương, Thế Tôn, Thiện Thệ   

          Giảng như thế, rồi nói kệ rằng :  

 

       “ Ai giữ giới luật thường hằng

       ‘ Bố thí cho kẻ ác, thân tâm tồi,

       ‘ Vật thí được đúng pháp rồi,

       ‘ Tâm khéo hoan hỷ, chẳng dời lòng tin

       ‘ Vào quả lớn của nghiệp mình,

       ‘ Phước cúng dường vậy chỉ dành người cho.

 

       ‘ Ai không giữ giới nhỏ, to,

       ‘ Bố thí vị hiền sĩ do nghiêm trì

       ‘ Giới luật, vị ấy nghiêm uy.

       ‘ Người cho tâm chẳng có gì hỷ hoan,

       ‘ Không lòng tin tưởng vững vàng,

       ‘ Vào quả lớn nghiệp cúng dàng phát sanh

       ‘ Người nhận có đủ tịnh thanh.

       ‘ Ai không giữ giới, ác hành trải qua

       ‘ Bố thí kẻ ác, xấu xa,

       ‘ Vật thí chẳng đúng pháp, mà tâm y

       ‘ Cũng không có hoan hỷ gì,

       ‘ Lòng tin cũng chẳng có chi vững vàng,

       ‘ Vào quả lớn nghiệp cúng dàng

       ‘ Cả hai cho, nhận thuộc hàng uế nhơ.

 

       ‘ Ai luôn giới luật tôn thờ

       ‘ Cúng dường hiền sĩ căn cơ tịnh lành

       ‘ Vật thí đúng pháp; tâm thành

       ‘ Hoan hỷ cùng với lòng lành vững tin,

       ‘ Vào quả lớn trong hành trình 

       ‘ Cúng dường trong sạch phát sinh hai đàng.

       ‘ Ta nói là sự cúng dàng

       ‘ Chắc chắn kết quả vô vàn phước sâu.

 

       ‘ Ai xuất ly tham ái mau

       ‘ Bố thí không tham ái nào tính toan,

       ‘ Vật thí đúng pháp sẵn sàng

       ‘ Tâm khéo hoan hỷ, vững vàng lòng tin,

       ‘ Vào quả lớn của nghiệp mình

       ‘ Quảng đại tài thí, quang minh cúng dường ”.

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 142 :  PHÂN BIỆT CÚNG DƯỜNG  –  DAKKHINÀVIBHANGA  Sutta  )  

  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2012(Xem: 5339)
法住天寒極地空花如雪鎖禪扃生死遙程幾許夢回故里 雲行色没浮漚暮影凝烟参晚课唄吟長夜有時聲斷洪洲 Âm: Pháp Trụ thiên hàn cực địa, không hoa như tuyết tỏa thiền quynh, sinh tử diêu trình, kỷ hứa mộng hồi cố lý. Vân hành sắc một phù âu, mộ ảnh ngưng yên tham vãn khóa, bái ngâm trường dạ, hữu thời thanh đoạn hồng châu Ôn dịch nghĩa: Cực thiên Bắc, tuyết dồn lữ thứ, sắc không muôn dặm hoa vàng, heo hút đường về, non nước bốn nghìn năm soi nguồn đạo PHÁP Tận hồng châu, chuông lắng đồi thông, bào ảnh mấy trùng sương đẫm, mênh mông sóng cuộn, dòng đời quanh chín khúc rọi bóng phù VÂN
01/10/2012(Xem: 4456)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3508)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4221)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 11420)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 11326)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3277)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5358)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3564)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3655)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]