Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

20. Kinh An Trú Tầm

18/05/202019:55(Xem: 10984)
20. Kinh An Trú Tầm

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



20. Kinh AN TRÚ TẦM

( Vitakkasanthana sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ

An trú tại Xá-Vệ(2) thành này

Sa-Vát-Thí (2) cũng là đây

Kỳ Viên Tinh Xá(3) hôm mai tịnh, hòa

 Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná(3)

Khu vườn do Trưởng giả tên là

A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka

Tức Cấp-Cô-Độc , thuần hòa tín gia

Mua lại từ Kỳ Đà thái tử

Để cúng dường Điều Ngự Thế Tôn

Cùng với Tăng đoàn Sa-môn

       Có nơi hoằng hóa pháp môn nhiệm huyền .

    _______________________________

 (1) : Hai trong 10 danh hiệu ( Thập Hiệu ) do người đời tôn xưng

         Đức Phật : Thế Tôn ( Bhagavà ) và Thiện Thệ ( Sugato ).

 (2) : Thành Xá Vệ tức Savatthi (Thất-La-Phiệt) một trung tâm văn 

     hóa, thương mại và chính trị quan trọng tại Ấn Độđương thời .   

(3) : Jetavanavihàra : Kỳ Viên  hay  Kỳ Hoàn Tinh Xá ,do Trưởng  

giả Cấp-Cô-Độc ( Anathapindika – tên thật là Sudatta – Tu-Đạt ) mua lại từ  khu vườn của Thái Tử KỳĐà (Jeta ) gần Thành Xá Vệ (Savatthi ) dâng cho Đức Phật .      Tại đây đức Phật đã nhập hạ nhiều lần và nhiều Kinh quan trọng đãđược Phật thuyết ra .

Vì Trưởng giả Cấp-Cô-Độc đã dùng vàng lót trên mặt đất để mua cho được khu vườn theo lời thách của  Thái Tử  KỳĐà , nên chùa này còn được gọi là Bố Kim Tự (chùa trải vàng ). Cảm phục tấm lòng nhiệt tâm vìđạo của Trưởng Giả, Thái Tử hoan hỷ cúng toàn bộ cây trái trong vườn đến Phật và Tăng chúng ,  nên ngôi chùa thường được gọi với danh xưng : Jetavana Anàthapindikàràma

–  Kỳ Thọ Cấp-Cô-Độc Viên ( vườn Cấp-Cô-Độc, cây KỳĐà ). 

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 20 : AN TRÚ TẦM       *   MLH  –282

 

          Lúc bấy giờ Phật liền cho gọi

          Chúng Tỷ Kheo câu hội đủđều

              Phật gọi : “ Này các Tỷ Kheo ! ”

       Chúng Tăng cung kính vâng theo lời Ngài.

    – “ Các Tỷ Kheo ! Như Lai sẽ giảng

          Cho các người pháp tạng tịnh thanh

              Tỷ Kheo chân thực tu hành

       Tăng-thượng-tâm phải thực hành thường xuyên

Tác ý liền vào trong năm tướng

          Hãy suy gẫm năm tướng là sao ?

              Tỷ Kheo y cứ tướng nào

       Hoặc là tác ý tướng nào trải qua

          Bất-thiện-tầm hay là nói khác

          Là các ác liên hệdục ngay             

              Liên hệ đến sân, siđây

       Ba thứ sanh khởi ởđây rần rần.

          Tỷ Kheo cần phải nên tác ý

          Một tướng khác khả dĩ khởi sanh

              Liên hệ đến thiện, tốt lành

       Nhờ tướng thiện đó tăng nhanh âm thầm

          Các ác-bất-thiện-tầm liên hệ

          Đến dục, sân, liên hệ đến si

              Sẽ bị diệt vong, khửđi

       Nhờ chúng bị diệt, tức thì nội tâm

          Được an trú, nhất tâm, an tịnh

          Được định tĩnh, tự tại an nhiên,

              Ví như thợ mộc tinh chuyên

Tay nghề thiện xảo, hay viên học trò

          Tính cẩn thận để cho hiệu quả

          Dùng cái nêm y đã làm ra

Đóng bật nêm khác văng xa.

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 20 : AN TRÚ TẦM       *   MLH  –283

 

       Cũng vậy, Phích-Khú(1) thiền-na (2) vững bền

          Y cứ trên tướng nào, tác ý

          Bất-thiện-tầm khả dĩ liên quan

              Đến dục, đến si, đến sân

       Cả ba sanh khởi rần rần trong tâm

          Tỷ Kheo ấy phải cần tác ý

          Một tướng khác khả dĩ không lìa

              Liên hệ thiện, khác tướng kia

       Nhờ vậy, tam độc được lìa, mất tăm

          Nhờ diệt chúng, nội tâm an tịnh

          Được an trú, định tĩnh, nhất tâm.

Chư Tỷ Kheo ! Khi suy tầm

       Tỷ Kheo tác ýâm thầm chẳng lay

          Một tướng khác tướng đây như thế

          Có liên hệ đến thiện, thẳng ngay

              Mà bất-thiện-tầm ởđây

       Liên hệ đến dục, sân này và si

          Vẫn khởi lên mọi thì, chấp thủ

          Thì hỡi Chư Phích-Khú ! Vị này              

              Cần tỉnh giác quán sát ngay

       Nguy hiểm của những tầm này như sau :

  ‘Đây thuộc vào những tầm bất thiện       

          Những tầm khiến có tội đủđiều

              Những tầm có khổ báo nhiều’,

       Nhờ sự quán sát, diệt tiêu rõ ràng

          Bất-thiện-tầm liên quan đến dục

          Liên hệ sân, tiếp tục với si

    _______________________________

(1) : Bhikkhu – Tỳ Khưu hay Tỷ Kheo , là vịđã thọĐại Giới tức

     Cụ Túc Giới , chính thức là thành viên của Sangha (Tăng Già).

  (2) : Thiền-na được phiên âm từ Jhana (Pali) hay Dhyana

         (Sanskrist) tức pháp môn Thiền-định .

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 20 : AN TRÚ TẦM       *   MLH  –284

 

              Nhờ diệt trừ chúng tức thì

       Nội tâm an trú, vui vì nhất tâm

          Được an tịnh, thâm trầm định tĩnh.

          Ví như tính ưa thích điểm trang

              Của một anh chàng, cô nàng

       Thanh xuân tuổi trẻ, còn đang yêu đời

          Nếu có người ác tâm nào đó

          Quàng cổ họ xác rắn tanh hôi

              Hay một xác chó, xác người

Đã chết mấy bữa, nay thời thối tanh

          Người thiếu nữ hay thanh niên đó

          Quá ghê tởm, xấu hổ, sợ thay !

              Vị Tỷ Kheo ấy cũng tày

       Quán bất-thiện-tầm đây, hãi hùng

          Liên hệ cùng sân, si và dục   

          Nên kinh sợ, thu thúc, quán thường.

              Nhờ quán sát chúng khẩn trương

       Nội tâm định tĩnh, an tường, nhất tâm.

 

          Nhưng Tỷ Kheo gặp nhằm trường hợp   

          Khi quán sát, nơm nớp lo âu

              Vìác bất thiện tầm nào

       Liên hệ dục hoặc thuộc vào sân, si

          Vẫn khởi lên mọi thì như lũ,

Chư Tỷ Kheo ! Phích-Khú phải sao ?

              Không ức niệm, tác ý vào

       Những tầm bất thiện đang ào khởi lên.

          Nhờ diệt trừ chúng, nên an tịnh

          Nội tâm được định tĩnh, trú an.

              Như người có mắt rõ ràng

       Không muốn thấy sắc-pháp đang định hình

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 20 : AN TRÚ TẦM       *   MLH  –285

 

          Trong tầm mắt của mình như vậy

          Nên người ấy nhắm mắt lại liền,

              Hay là ngó qua một bên.

       Tỷ Kheo cũng vậy, không nên động lòng

          Không ức niệm, cũng không tác ý

          Bất-thiện-tầm mình nghĩ chẳng lành,

              Nhờ thế chúng được diệt nhanh.

 

       Nhưng khi Phích-Khú thực hành song song

          Không ức niệm và không tác ý

          Nhưng vẫn bịác, bất-thiện-tầm

              Liên hệ đến dục, si, sân

       Vẫn khởi lên mạnh rần rần ởđây

          Tỷ Kheo này phải cần tác ý

          Cho thật kỹ hành-tướng các tầm

              Cùng sự an trú các tầm

       Nhờ vậy, ác & bất-thiện-tầm diệt mau.

          Ví như người đi mau, tự nghĩ :

        ‘Tại sao ta lại chỉđi mau ?

              Ta hãy chậm lại đi nào !’.

       Thấy mình đi chậm, trong đầu nghĩ suy :

  ‘Tại sao ta lại đi chậm thế ?

          Hãy ngừng lại đây để nghỉ ngơi’.

              Trong khi dừng lại, nghĩ thời :

     ‘Tại sao dừng lại, hãy ngồi xuống đây’.     

          Trong khi ngồi, người này suy nghĩ :

         ‘Tại sao ta ngồi nghỉ như vầy

Vậy ta hãy nằm xuống ngay’.

       Và cứ như vậy, người này nhắm vô

          Bỏ dần các cứng thô cử chỉ

          Các cử chỉ tế nhị thực hành.

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 20 : AN TRÚ TẦM       *   MLH  –286

 

              Cũng vậy, Tỷ Kheo thuần thành

       Cần phải tác ý đến ‘hành tướng’ ngay.

          Nhưng vị này trong khi tâm trí

          Luôn tác ý hành-tướng các tầm

              Và sự an trú các tầm

       Nhưng các ác, bất-thiện-tầm liên quan

          Đến dục, sân, si đang phát khởi

          Tỷ Kheo ấy phải vội thực hành :

              Dán lưỡi lên nóc họng mình

       Nghiến chặt răng lại, giữ gìn bản tâm

          Lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục

Đánh bại tâm liên tục đêm ngày

              Đểác, bất-thiện-tầm này

       Đầy sân, si, dục được ngay diệt trừ

          Nhờ diệt trừ chúng ngay như vậy

          Nội tâm Tỷ Kheo ấy nhất tâm

              An trú, định tĩnh thâm trầm,

       Như người lực sĩ chủ tâm nhất thời

          Nắm lấy đầu một người ốm yếu

          Hay là níu và nắm lấy vai

              Dễ dàng quật ngã xuống ngay

       Chế ngự, đánh bại người này dễ thôi.

 

          Tỷ Kheo chẳng đổi dời ý chí

          Nhờ nghiến răng, đối trị tự mình

              Dán lưỡi lên nóc họng mình

       Chế ngự, nhiếp phục tiến trình của tâm

          Bất-thiện-tầm liên quan đến dục

          Đến sân, si – liên tục diệt vong

              Chính nhờ trừ diệt chúng xong

       Nội tâm định tĩnh, một lòng trú an.

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 20 : AN TRÚ TẦM       *   MLH  –287

 

          Chư Tỷ Kheo ! Mọi đàng như vậy

          Tỷ Kheo ấy an tịnh, nhất tâm

              An trú pháp môn đọa tầm

       Có thể tác ý đến tầm nào đây

          Mà vị này muốn mình tác ý ?

          Nếu không muốn tác ý tầm nào

              Có thể không tác ý vào

       Vịấy trừ diệt khát-khao ái liền

          Giải thoát những hiện tiền kiết-sử

          Khéo chinh phục chấp thủ mạn kiêu,

              Chấm dứt khổđau mọi điều

(Thân tâm an lạc, đạt nhiều ước mong) ”.

 

          Nghe Thế Tôn thuyết xong pháp quý

          Chư Tỷ Kheo hoan hỷ, an hòa

              Tín thọ lời đấng Phật Đà

       Thầm nguyện tinh tấn trải qua hành trì ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

 

*

*    *

 

 

(  Chấm dứt  Kinh số 20  :   AN TRÚ TẦM

VITAKKASANTHANA  Sutta  )

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2012(Xem: 5339)
法住天寒極地空花如雪鎖禪扃生死遙程幾許夢回故里 雲行色没浮漚暮影凝烟参晚课唄吟長夜有時聲斷洪洲 Âm: Pháp Trụ thiên hàn cực địa, không hoa như tuyết tỏa thiền quynh, sinh tử diêu trình, kỷ hứa mộng hồi cố lý. Vân hành sắc một phù âu, mộ ảnh ngưng yên tham vãn khóa, bái ngâm trường dạ, hữu thời thanh đoạn hồng châu Ôn dịch nghĩa: Cực thiên Bắc, tuyết dồn lữ thứ, sắc không muôn dặm hoa vàng, heo hút đường về, non nước bốn nghìn năm soi nguồn đạo PHÁP Tận hồng châu, chuông lắng đồi thông, bào ảnh mấy trùng sương đẫm, mênh mông sóng cuộn, dòng đời quanh chín khúc rọi bóng phù VÂN
01/10/2012(Xem: 4457)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3508)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4221)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 11420)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 11330)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3278)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5358)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3564)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3657)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]