Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

126. Kinh Phù Di

19/05/202011:32(Xem: 8485)
126. Kinh Phù Di

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


126. Kinh  PHÙ-DI

( Bhùmija sutta )

     

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả 

          Trú Vương-Xá – Rá-Chá-Ga-Ha 

              Tinh Xá Vê-Lú-Va-Na 

      (Trúc Lâm Tinh Xá cũng là nơi đây)

          Gần nơi này nuôi nhiều sóc lạ

         (Ka-Lanh-Đá-Ka-Ní-Vá-Pa). 

 

              Vị Tôn-giả Phu-Mi-Cha           ( Bhùmija )

       Buổi sáng mang bát cùng là đắp y

          Tôn-giả đi đến nơi trú xứ

          Của Vương-tữ Cha-Dá-Sê-Na,   ( Jayasena )

              Được mời ngồi chỗ soạn ra.

       Vương-tử Cha-Dá-Sê-Na mở đầu

          Nói những lời đón chào, thăm hỏi.

          Sau khi nói thân hữu, xã giao

              Một bên vương-tử ngồi vào

       Hướng tới Tôn-giả, bắt đầu thưa qua :

 

    – “ Thưa ngài Phu-Mi-Cha ! Sự cố

          Có một số Sa-môn, Bàn-môn

              Có lý thuyết họ bảo tồn

       Cũng là quan điểm Bàn-môn sẵn dành :

         ‘Nếu ước nguyện thực hành Phạm-hạnh

          Thời không đạt được Thánh vị đâu !

              Nếu không ước nguyện nhằm vào

       Thực hành phạm-hạnh, không sao đạt thành

          Được quả vị tịnh thanh nào đó.

          Nếu có và không có ước mong

              Thực hành phạm-hạnh cần công

       Không đạt quả vị dù lòng không mong.

          Nếu không có và không không có

          Ước nguyện phạm-hạnh đó thực thi 

              Thời không đạt quả vị chi.

       Đạo Sư Tôn-giả nói gì điều đây ?

          Có lập luận điều này sao vậy ? ”.

 

    – “ Thưa Vương-tử ! Điều ấy thực ra

              Tôi không tận mặt Phật Đà

       Được nghe như vậy hoặc là nhớ ghi

          Sự việc này nếu khi xảy tới

          Thế Tôn với giải thích như sau :

             ‘Nếu có điều ước nguyện nào

       Để hành phạm-hạnh thuộc vào dạng chi

          A-Dô-Ni-Sô – không chánh đáng,   ( Ayoniso )

          Thời không đạt được quả vị gì.

              Nếu không có ước nguyện chi

       Để hành phạm-hạnh, không vì chánh chân

          Thời cũng không đạt phần quả vị.

          Nếu đích thị có & không mong gì

              Hành phạm-hạnh bất chánh, thì

       Không đạt quả vị bất kỳ ước & không.

          Nếu không có và không không có

          Hành phạm-hạnh chẳng có chánh chân

              Thời không đạt quả vị cần.

 

       Còn nếu vị ấy có phần ước mong

          Hành phạm-hạnh sáng trong, chánh đáng

          Thời sẽ đạt quả vị quang huy.

              Nếu không có ước nguyện gì  

       Hành phạm-hạnh, nhưng hành trì chánh chân

          Sẽ đạt phần quả vị lành đó.

          Nếu có và không có ước mong

              Hành phạm-hạnh đúng, sáng trong

       Sẽ đạt quả vị viên thông, vừa lòng.

          Nếu không có và không không có

          Ước nguyện đó, phạm-hạnh thực hành

              Một cách chánh đáng, tịnh thanh

       Cũng được quả vị đạt thành viên thông.

 

          Thưa Vương-tử ! Tôi không tận mặt

          Nghe Đức Phật hay được nhớ ghi.

              Sự việc ấy xảy ra, thì

       Thế Tôn có giải thích y như vầy ”.

 

    – “ Nếu Đạo Sư của ngài thuyết vậy

          Lập luận vậy, thời tôi nghĩ là   

              Thầy Tôn-giả Phu-Mi-Cha

       Đứng đầu hơn cả các Bà-la-môn

          Hay Sa-môn tầm thường tất cả ”.

 

          Rồi vương-tử Cha-Dá-Sê-Na 

              Mời Tôn-giả Phu-Mi-Cha

       Dùng với Tha-Lí-Pa-Ka bát mình     ( Thalipaka )

          Để thọ thực an bình hoan hỷ

          Rồi Tôn-giả Phu-Mí-Cha này

              Sau khi thọ thực tại đây

       Trở về, đến hương thất Ngài Thế Tôn,

          Đảnh lễ đức Thế Tôn Vô thượng

          Rồi ngồi xuống bên cạnh Phật Đà,

              Cung kính, Tôn-giả thưa qua

       Đầu đuôi câu chuyện Cha-Da-Sê-Nà 

          Đã hỏi và Tôn-giả đã đáp       

          Như vậy có thuận hạp với lời

              Của đức Thế Tôn một thời

       Đã dạy, không xuyên tạc lời Thế Tôn

          Với điều không đúng với sự thật,

          Hay giải thích này rất chánh chân,

              Đúng pháp, tùy pháp – là phần

       Các đồng-phạm-hạnh khi cần, nói ra

          Đúng pháp và tùy pháp nói đó

          Sẽ không có điều chỉ trích ra ?.

 

        – “ Thật vậy, này Phu-Mi-Cha !    

       Với câu hỏi của Cha-Da-Sê-Nà

          Câu trả lời ông đà sử dụng,

          Ông nói đúng lời của Như Lai,

              Ông không xuyên tạc Như Lai

       Do sai sự thật. Ở đây ông dùng

          Lời giải thích tựu trung đúng pháp

          Và tùy pháp, không thể trách chê  

              Từ đồng-phạm-hạnh cận kề,

       Không cớ chỉ trích vấn đề nêu trên.   

 

          Phu-Mi-Cha ! Tuổi tên Phạm-chí

          Hay Sa-môn các vị trải qua

              Có tà kiến, tư-duy tà,

       Tà ngữ, tà nghiệp, sống tà mạng luôn

          Tà tinh cần, tà niệm, tà định   

          Nếu họ tính ước nguyện thực hành

              Phạm hạnh, thời sẽ không thành,

       Không đạt quả vị tịnh thanh bao giờ.

 

          Nếu họ không bao giờ ước nguyện

          Hành Phạm hạnh, tà kiến chấp vào

              Thời không đạt quả vị đâu !

       Nếu có & không có chú vào ước mong

          Hành phạm-hạnh, cũng không đạt đó.

 

          Nếu không có & không không có mong

              Không đạt quả vị viên thông,

       Vì sao vậy ? Vì đây không phải là

          Phương pháp mà để đạt quả vị.

 

          Phu-Mi-Cha ! Như ví một người 

              Cần dầu, tìm kiếm khắp nơi.

       Rồi y đổ cát vào nơi cái thùng

          Cứ rưới nước rồi dùng sức ép 

          Để cát bị sức ép ra dầu.

              Nếu y có ước nguyện vào

       Sự ép cát để lấy dầu cho mau,

          Y không thể lấy dầu từ cát.

 

          Hoặc người khác, không có ước mong,

              Có và không có ước mong,           

       Không có & không không có mong ước nào

          Để ép cát lấy dầu như thế

          Cũng không thể lấy được dầu đâu !

              Này Phu-Mi-Cha ! Vì sao ?

       Vì không phải cách lấy dầu trải qua

          Không phải là phương pháp tinh chế.

 

          Cũng như thế, này Phu-Mi-Cha !

              Những vị Sa-môn, hay là

       Những vị Phạm-chí có tà kiến ni,

          Tà tư-duy, tà ngữ, tà nghiệp,

          Tà mạng, tiếp là tà tinh cần,

              Tà niệm. tà định thực hành

       Quả vị không thể đạt thành được đâu !

          Vì không phải thuộc vào phương pháp    

          Để chứng đạt quả vị thanh cao.

              Phu-Mi-Cha ! Ví như sau :

       Một người cần sữa, tìm cầu sữa tươi,

          Đi khắp nơi để tìm sữa ấy,

          Rồi nắm lấy sừng con bò con,

              Cố gắng vắt sữa bò con,

       Nhưng y rốt cuộc cũng không được gì.

          Vì sao vậy ? Bởi vì điều ấy

          Vốn không phải phương pháp tìm cầu

              Để y có sữa được đâu !

 

       Cũng như một kẻ tìm cầu sanh-tô

          Tìm sanh-tô chỗ này chỗ khác,

          Y lấy bát đổ nước vào ghè

              Khuấy đánh bằng một cái que

       Với chỉ nước lã trong ghè khuấy lên

          Mong trở nên sanh-tô sao đạt ?

          Vì phương pháp sai lạc làm ra.

 

              Ví như, này Phu-Mi-Cha ! 

       Một người cần lửa, gần xa tìm cầu

          Y mau mau đem đồ quay lửa

          Cọ xát, cứa vào một khúc cây

              Ướt nhẹp và có nhựa đầy

       Để mong có lửa, việc này uổng công !

          Vì sao vậy ? Vì không đúng cách. 

 

          Cũng như vậy, phân tách sâu xa

              Những Sa-môn, Bàn-môn – mà

       Tà kiến, tà mạng cùng tà tư duy,

          Hay mọi thì tà ngữ, tà nghiệp,

          Tà tinh tấn, tà niệm, định tà

              Nếu có ước nguyện, hay là           

       Không có ước nguyện – có và cũng không,

          Nếu không có và không không có

          Ước nguyện đó – phạm hạnh thực hành

              Nhưng vì tà đạo sẵn dành

       Không thể chứng quả vị thanh tịnh nào.

          Vì cớ sao ? Làm sai phương pháp

          Để họ đạt quả vị thanh cao.

 

              Phu-Mi-Cha ! Sa-môn nào

       Hay những Phạm-chí trước sau mọi thì

          Có chánh kiến, tư duy chân chánh,

          Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh cần,

              Chánh mạng, chánh niệm cùng phần

       Chánh định. Nếu họ tự thân ước nguyền

          Hành phạm-hạnh cần chuyên, thời chắc

          Họ sẽ đắc quả vị thanh cao.

              Nếu không có ước nguyện nào,

       Nếu có & không có chú vào ước mong,

          Nếu không có và không không có

          Ước nguyện đó – phạm-hạnh thực hành

              Sẽ đạt quả vị tịnh thanh,

       Vì sao ! Vì phương pháp dành cho ai

          Thực hành để chứng ngay quả vị.

 

          Phu-Mi-Cha ! Như ví người này

              Cần dầu, tìm khắp đó đây

       Tìm được hạt đậu, dừa hay hạt mè

          Hông đậu, dừa hay mè, sau đó

          Y chịu khó đổ vào cái thùng

              Ép cho ra dầu để dùng,

       Đó là phương pháp sẽ cung cấp dầu.

 

          Cũng vậy, bao Sa-môn, Phạm-chí  

          Có chánh kiến cho chí định thiền,

              Dù có hay không ước nguyền

       Thực hành phạm-hạnh thì liền đạt ngay

          Quả vị Thánh. Điều này sao thế ?

          Vì là phương pháp để đạt thành

              Quả vị thanh cao tịnh thanh.

 

       Này Phu-Mi-Chá ! Có anh tìm cầu

          Sữa tươi, nên đi vào chuồng trại

          Vắt sữa từ bò cái đương thì

              Y lấy được sữa mang đi.

       Cũng như có kẻ – Phu-Mi-Cha này !

          Cần sanh-tô, đó đây tìm kiếm

          Sau  khi kiếm được lạc (đa-thi)

              Đổ vào cái ghè tức thì

       Lấy que khuyấy đánh kiên trì liền tay

          Y có ngay sanh-tô ở đấy.

          Nếu người ấy ước nguyện hay không

              Cũng có sanh-tô vừa lòng,

       Vì sao ? Vì người ấy trong việc này

          Làm đủ đầy đúng phương pháp ấy.

 

          Cũng như vậy, có một người nào   

              Cần lửa, khắp chốn tìm cầu

       Lấy đồ quay lửa, cọ vào khúc cây

          Là khúc cây khô, không có nhựa

          Cọ mạnh hoài thì lửa bùng lên.

              Nếu y không ước nguyện nên,

       Có hay không có ước nguyền ở trong,

          Nếu không có và không không có

          Ước nguyện đó, người ấy vẫn là

              Có sanh-tô, có lửa ra.   

       Này Phu-Mi-Chá ! Những Sa-môn nào

          Hay Bàn-môn thuộc vào chánh kiến

          Chánh tư duy, chánh nghiệp, lời chân,

              Chánh niệm và chánh tinh cần,

       Chánh mạng, chánh định – tám phần sạch trong.

          Dù ước nguyện hay không ước nguyện

          Hành phạm-hạnh, diễn tiến đạt thành

              Quả vị thanh cao tịnh thanh    

       Vì sao ? Phương pháp thực hành trải qua

          Đúng chính là để đạt quả vị.

 

          Nếu bốn ví dụ ấy khởi ra        

              Từ nơi ông, Phu-Mi-Cha !

       Nói với vương-tử Cha-Da-Sê-Nà

          Thời vương-tử tại nơi trú xứ

          Ông trú ngụ đã tin tưởng ông,

              Sẽ hành động đúng trong vòng

       Cung cách tin tưởng nơi ông từ đầu ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Làm sao được thế !

          Con không thể nào nẩy sinh ra

              Bốn ví dụ Ngài nêu ra

       Để vị Cha-Dá-Sê-Nà vững tin ”.    

 

          Đức Thế Tôn cao minh giảng giải

          Pháp như vậy cho Phu-Mi-Cha

              Tôn-giả đảnh lễ thiết tha

       Hoan hỷ tín thọ Phật Đà kim ngôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*  *   *

 

( Chấm dứt Kinh số 126 : PHÙ-DI  – BHÙMIJA  Sutta )

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2012(Xem: 5339)
法住天寒極地空花如雪鎖禪扃生死遙程幾許夢回故里 雲行色没浮漚暮影凝烟参晚课唄吟長夜有時聲斷洪洲 Âm: Pháp Trụ thiên hàn cực địa, không hoa như tuyết tỏa thiền quynh, sinh tử diêu trình, kỷ hứa mộng hồi cố lý. Vân hành sắc một phù âu, mộ ảnh ngưng yên tham vãn khóa, bái ngâm trường dạ, hữu thời thanh đoạn hồng châu Ôn dịch nghĩa: Cực thiên Bắc, tuyết dồn lữ thứ, sắc không muôn dặm hoa vàng, heo hút đường về, non nước bốn nghìn năm soi nguồn đạo PHÁP Tận hồng châu, chuông lắng đồi thông, bào ảnh mấy trùng sương đẫm, mênh mông sóng cuộn, dòng đời quanh chín khúc rọi bóng phù VÂN
01/10/2012(Xem: 4457)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3508)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4221)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 11420)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 11329)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3278)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5358)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3564)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3657)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]