Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

134. Kinh Lomasakangiya NDHG

19/05/202011:34(Xem: 9372)
134. Kinh Lomasakangiya NDHG

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


134. Kinh LOMASAKANGIYA NHẤT DẠ HIỀN GIẢ
 (Lomasakangiya-bhaddekartta  Sutta)

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ – trú qua  (1)

              Tinh Xá Chê-Tá-Va-Na   (1)

       Do A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka cúng dường  (1)

          Một Tôn-giả ở vương-thành cũ

          Ka-Pi-La-Vát-Thú  – Sắc-Da  (2)

              Lô-Ma-Sá-Kanh-Ghi-Da  (2)

       Vị ấy trú Ni-Rô-Tha chùa này.  (2)

 

          Tại nơi đây, khi đêm vừa dứt

          Một vị Thiên lập tức hiện ra

             Là Thiên-tử Chanh-Đa-Na  (3)

       Dung sắc thù thắng chói lòa phát ra

          Cả một vùng Ni-Rô-Tha Tinh-Xá

          Gặp Tôn-giả được nêu tên là  

    ______________________________

 

(1) : Thành Xá Vệ - Savatthi, nơi tọa lạc của Tinh Xá Kỳ Viên – 

     Jetavanavihàra, do Trưởng-giả Cấp Cô Độc – Anathapindika

    dâng cúng.

(2) : Tôn-giả Lomasakangiya  trú tại Tinh Xá Nigrodha thuộc

    vương thành Kapilavatthu (Ca-Tỳ-La-Vệ) của dòng họ Sakya    

    (Thích Ca).                       (3) : Vị Thiên-tử Candana.

 

 

              Lô-Ma-Sá-Kanh-Ghi-Da

       Hỏi : “ Này Phích-Khú ! Trải qua trước giờ

          Có bao giờ thọ trì tổng thuyết

          Và biệt thuyết ‘Nhất dạ Hiền-nhân’ ?

              Thọ trì bài kệ về phần

      ‘Nhất dạ Hiền-giả’ rất cần hay không ? ”.

 

    – “ Này Hiền-giả ! Tôi không trì thọ  

         ‘Nhất dạ Hiền-giả’ đó, kệ này

              Tổng thuyết, biệt thuyết cả hai.   

       Hiền-giả trì thọ điều này hay không ? ”.

 

    – “ Tỷ Kheo ! Tôi cũng không trì thọ  

         ‘Nhất dạ Hiền-giả’ đó. Còn ngài  

              Có thọ trì bài kệ hay

       Về ‘Nhất dạ Hiền-giả’ này hay không ? ”. 

 

    – “ Này Hiền-giả ! Tôi không trì thọ

         ‘Nhất dạ Hiền-giả’ đó kệ ngôn.

              Thiên-tử có biết hay không ”.

 

 – “ Tôn-giả ! Tôi thọ trì trong kệ này ”.

 

    – “ Hiền-giả ! Hãy trình bày cho rõ   

          Như thế nào trì thọ kệ đây

              Về ‘Nhất dạ Hiền-giả’ này

       Xin nói rõ để tôi đây hành trì ”.

 

    – “ Này Tỷ Kheo ! Một thì gian nọ   

          Đức Thế Tôn ngự ở cõi Thiên 

              Cõi Trời Tam Thập Tam Thiên

       Cũng tên Đao-Lợi. Chư Thiên nơi này

          Vân tập lại nghe Ngài thuyết giáo

          Tại Vô Cấu Bạch Thạch, hay là

              Hòn Panh-Đá-Kăm-Pá-La   (Pandukambala)

 

       Dưới cây Trí-độ-thọ đây, tức là

          Pa-Rít-Chát-Tá-Ka đại thọ        (Paricchattaka)

          Cũng tại đó, Thế Tôn giảng bày

              Tổng thuyết, biệt thuyết cả hai

      ‘Nhất dạ Hiền-giả’ Kinh đây thọ trì :

 

   – “ Quá khứ không truy tìm gì

        Tương lai chẳng ước vọng chi, xa vời !
        Quá khứ đã đoạn tận rồi

        Tương lai chưa đến  –  Chỉ thời hiện nay

        Tuệ quán ấy chính là đây

        Không động, không chuyển. Biết vầy, nên tu !

        Nay làm nhiệt tâm, cần cù

        Ai biết mai chết, giã từ nhân sinh ?

        Không ai có thể điều đình         

        Với quân Thần Chết thì mình bó tay !

        Hiện tại, nhiệt tâm trú vầy

        Không hề mệt mỏi cả ngày lẫn đêm.

        Nhất Dạ Hiền Giả xướng tên

        An tịnh, trầm lặng, đứng trên mọi người ”.

 

          Này Tỷ Kheo ! Tôi thời trì thọ

          Bài kệ đó ‘Nhất dạ Hiền-nhân’

              Tổng thuyết, biệt thuyết hai phần.

       Tỷ Kheo hãy học cho thuần thục đi !

          Hãy thọ trì tổng thuyết, biệt thuyết

         ‘Nhất dạ Hiền-giả’ thiệt kỹ càng,

              Vì mục đích có liên quan

       Căn bản Phạm-hạnh nghiêm trang đạt thành ”.

 

          Thiên-tử Chanh-Đa-Na nói vậy

          Liền biến mất tại đấy thoáng qua.

              Lô-Ma-Sá-Kanh-Ghi-Da 

       Khi đêm đã mãn, sàng tòa dọn đi

          Mang tam y cùng là bình bát

          Lên đường đến Sa-Vát-Thí liền,

              Tuần tự du hành qua miền

       Đến Xá-Vệ, chùa Kỳ Viên tức là

          Ngôi Tinh Xá Chê-Ta-Va-Ná

          Do A-Ná-Tha-Pin-Đi-Ka

             (Ông Cấp-Cô-Độc cũng là)

       Chí thành dâng cúng Phật Đà trước đây.

 

          Rồi Tôn-giả đến ngay hương-thất

          Của Đức Phật, đảnh lễ thiết tha,

              Ngồi xuống một bên Phật Đà

       Đoạn Tôn-giả tường thuật qua quá trình

          Việc Thiên-tử thình lình xuất hiện

          Hỏi về chuyện có thọ trì chăng

             ‘Nhất dạ Hiền-giả’ Kinh văn

       Tổng thuyết, biệt thuyết chánh chân như vầy.

          Vị Thiên này đọc bài kệ tả

          Về ‘Nhất dạ Hiền-giả’ tức thì

              Khuyên nên Kinh này thọ trì   

       Căn bản Phạm-hạnh thật vi diệu vầy,

          Nói xong Thiên-tử này biến mất.

 

          Thật lành thay nếu Phật giảng bày

              Tổng thuyết, biệt thuyết Kinh này

      ‘Nhất dạ Hiền-giả’ kệ đây tròn đầy ”. 

 

    – “ Tỷ Kheo này ! Có biết Thiên-tử

          Nói tuần tự với ông là ai ? ”.

 

       – “ Thưa ! Con không biết vị này ”.

 

 – “ Tỷ Kheo ! Thiên-tử hiện ngay thiện lành

 

          Chính là Chanh-Đa-Na Thiên-tử

          Khi thính dự Pháp, rất chú tâm

              Tác ý, tập trung nội tâm

       Lóng tai nghe Pháp, lòng thầm nhớ ghi.

          Này Tỷ Kheo ! Vậy thì nghe kỹ

          Suy nghiệm kỹ, cố gắng liễu tri :

 

          Này Tỷ Kheo ! Vậy thì tuần tự

          Sự truy tìm quá khứ là sao ?

              Vị ấy suy nghĩ như sau :

      ‘Như vậy là Sắc thuộc vào của tôi

          Trong quá khứ’, để rồi tìm lấy

          Sự hân hoan trong ấy tức thời.

             ‘Như vậy là thọ của tôi

       Trong quá khứ’, để rồi tính toan

          Truy tìm sự hân hoan trong ấy.

         ‘Ồ ! Như vậy là tưởng của tôi’,

             ‘Như vậy là hành của tôi’,

      ‘Như vậy là thức của tôi’ rõ ràng

          Trong quá khứ. Hân hoan trong ấy

          Được vị đấy truy tìm. Đó là

              Truy tìm quá khứ đã qua.

 

       Này Phích-Khú ! Thế nào là Vị đây 

          Không truy tìm vào ngay quá khứ ?

          Vị ấy tự suy nghĩ tức thời :

             ‘Như vậy là sắc của tôi…

       Thọ, tưởng, hành, thức của tôi… vun trồng

          Trong quá khứ. Nhưng không tìm lấy  

          Sự hân hoan trong ấy. Đó là

              Không truy tìm quá khứ qua,

 

       Còn ước vọng tương lai ra thế nào ?

          Vị ấy nghĩ : ‘Mong sao như vậy

          Là Sắc ấy của tôi tương lai’,

              Hay là : ‘Mong rằng như vầy

       Là thọ, tưởng, hành, thức này của tôi

          Trong tương lai’. Để rồi tìm lấy

          Sự hân hoan trong ấy đêm ngày.

              Này các Tỷ Kheo ! Như vầy

       Là ước vọng trong tương lai (vị thời),

 

          Các Tỷ Kheo ! Còn nơi vị sống

          Không ước vọng tương lai là sao ?

              Vị ấy suy nghĩ như sau :

      ‘Mong rằng như vậy thuộc vào sắc đây

          Của tôi trong tương lai, hiện thực

          Là thọ, tưởng, hành, thức tôi mang

              Trong tương lai. Nhưng chẳng màng,

       Không truy tìm sự hân hoan trong này.

          Các Tỷ Kheo ! Như vầy là sống

          Không ước vọng tương lai (mai sau).

 

              Còn phải hiểu như thế nào

       Các pháp hiện tại cuốn vào, lôi theo ?

          Các Tỷ Kheo ! Ở đây được kể

          Có những kẻ vô văn phàm phu

              Không đến các bậc Thánh từ,

       Không thuần thục pháp phạm trù Thánh nhân

          Không tu tập pháp phần Thánh chất.

          Không đi đến các bậc Chân nhân,

          Không thuần thục pháp Chân nhân,

       Không tu tập pháp Chân nhân tịnh hòa.

 

          Quán sắc đó chính là tự ngã,

          Quán tự ngã có sắc, hay là

              Quán sắc trong tự ngã ta,

       Hay quán tự ngã trong sắc mà có đây.

          Hay vị này quán thọ cùng tưởng,

          Và hành, thức trong hướng trải qua

              Ngũ uẩn kể trên chính là

       Tự ngã, hay tự ngã là có ngay

          Ngũ uẩn này. Hay trong tự ngã

          Có đủ cả ngũ uẩn ở đây,

              Quán ngã trong ngũ uẩn này.

       Này các Phích-Khú ! Như vầy vị đây

          Bị cuốn ngay trong pháp hiện tại.

 

          Không cuốn trong hiện tại là sao ?  

              Đa văn Thánh-đệ-tử nào

       Đi đến bậc Thánh thanh cao xuất trần

          Thuần thục các pháp phần bậc Thánh,

          Tu tập pháp bậc Thánh chánh chân.

              Đi đến các bậc Chân nhân,

       Thuần thục pháp bậc Chân nhân các phần,

          Tu tập pháp Chân nhân các vị,

          Không quán kỹ ngũ uẩn chính là

              Tự ngã. Cũng không quán ra

       Tự ngã có ngũ uẩn và cũng không

          Quán ngũ uẩn là trong tự ngã,

          Không quán ngã trong ngũ uẩn này.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Như vầy

       Là không bị cuốn pháp ngay hiện thì.

 

   – “ Quá khứ không truy tìm gì

        Tương lai chẳng ước vọng chi, xa vời !
        Quá khứ đã đoạn tận rồi

        Tương lai chưa đến  –  Chỉ thời hiện nay

 

        Tuệ quán ấy chính là đây

        Không động, không chuyển. Biết vầy, nên tu !

        Nay làm nhiệt tâm, cần cù

        Ai biết mai chết, giã từ nhân sinh ?

        Không ai có thể điều đình         

        Với quân Thần Chết thì mình bó tay !

        Hiện tại, nhiệt tâm trú vầy

        Không hề mệt mỏi cả ngày lẫn đêm.

        Nhất Dạ Hiền Giả xướng tên

        An tịnh, trầm lặng, đứng trên mọi người ”.

 

          Nghe những lời Thế Tôn thuyết giảng

          Pháp viên mãn, Tôn-giả tên là

              Lô-Ma-Sá-Kanh-Ghi-Da

       Hoan hỷ tín thọ Phật-Đà kim ngôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*  *   *

 

( Chấm dứt Kinh số 134 :  LOMASAKANGI  NHẤT DẠ

HIỀN GIẢ  – LOMASAKANGIYABHADDEKARATTA  Sutta )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2012(Xem: 5339)
法住天寒極地空花如雪鎖禪扃生死遙程幾許夢回故里 雲行色没浮漚暮影凝烟参晚课唄吟長夜有時聲斷洪洲 Âm: Pháp Trụ thiên hàn cực địa, không hoa như tuyết tỏa thiền quynh, sinh tử diêu trình, kỷ hứa mộng hồi cố lý. Vân hành sắc một phù âu, mộ ảnh ngưng yên tham vãn khóa, bái ngâm trường dạ, hữu thời thanh đoạn hồng châu Ôn dịch nghĩa: Cực thiên Bắc, tuyết dồn lữ thứ, sắc không muôn dặm hoa vàng, heo hút đường về, non nước bốn nghìn năm soi nguồn đạo PHÁP Tận hồng châu, chuông lắng đồi thông, bào ảnh mấy trùng sương đẫm, mênh mông sóng cuộn, dòng đời quanh chín khúc rọi bóng phù VÂN
01/10/2012(Xem: 4456)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3508)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4221)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 11420)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 11326)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3277)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5358)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3564)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3655)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]