Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

00. Lời Ngỏ

18/05/202019:37(Xem: 9574)
00. Lời Ngỏ

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tựTUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


LỜI NGỎ

 

 

-  Namo Sakya Muni Buddhàya .

Nhất tâm đính lễĐại Giác Thế Tôn Thích Ca Mâu-Ni Phật  .

-  Namo Thitasìlo Mahàtheràya .

Kính lễthượng Giới hạ Nghiêm Bổn Sư Hòa Thượng Giác Linh.

 

 

-  Ngưỡng bạch Chư Tôn Thạc Đức Tăng Già.

    -  Kính thưa mười phương chư Thiện Hữu Tri Thức.                          

 

      Do duyên lành thù thắng, được Chư Tôn Đức cùng Thiện-hữu Tri-thức gần xa hết lòng hỗ trợ và khuyến khích nên từ ngày 9. 9. 2009, chúng con đã khởi soạn “Thi hóa TRƯỜNG BỘ KINH” gồm 3 Tập, chuyển thể thơ tất cả 34 Kinh, đã được hoàn tất vào ngày 15. 7. 2011. Ba Tập đã lần lượt được ấn hành do Nhà Xuất Bản Phương Đông (Saigon, Việt Nam).  

 

      Nay chúng con lại tiếp tục phát nguyện Chuyển Thơ Kinh TRUNG BỘ để gọi là góp một vài viên gạch trong tòa nhà Chánh Pháp, mong giúp phần nào cho những vị hữu duyên muốn tìm hiểu kho tàng Phật Pháp trong Tam Tạng Thánh Điển Phật Giáo có thêm tài liệu tham khảo.

 

Phật Giáo Việt Nam từ xưa vẫn sử dụng Tam Tạngbằng chữ Hán, nên các nhàsư bắt buộc phải biết  Hán tự  để đọc kinh sách, vì Tam Tạng kinh điển chưa được dịch sang Việt ngữ, ngoại trừ một số Kinh từ Hán Tạng được các vị Dịch sư thực hiện từ sau thời Chấn hưng Phật giáo. Còn Pàli Tạng thì hầu như chưa có.

 

      Nhưng rồi đại duyên lành đã đến từ Hòa Thượng Minh Châu sau khi tốt nghiệp Tiến Sĩ Phật học tại Ấn Độ, đã phát nguyện phiên dịch Tạng Kinh  từ  Pàli Tạng ra  Việt ngữ.Vàđến nay Phật Giáo Việt Nam  tự hào đã có Tạng Kinh tiếng

 

Việt trọn đủ 5 bộ : Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Chi Bộ và Tiểu Bộ .

 

      Chúng con hết lòng ngưỡng phục và biết ơn công đức phiên dịch của Cố Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU, vì nhờ Ngài mà chúng con mới có thể tiếp cận được những lời dạy thâm thúy và siêu việt của Đức Thế Tôn.

 

Bản thân chúng con, tài hèn trí kém, cũng không phải là nhà thơ, nhưng cảm nhận được ân đức độ sinh cao cả của đấng Cha Lành và cảm niệm ân giáo hóa của Bổn Sư : cố Hòa Thượng GIỚI NGHIÊM – nên thường ấp ủ ý tưởng báo đền ơn Phật, báo ân Thầy Tổ, giúp đem Pháp nhiệm mầu đến cho nhiều người để cùng được ân triêm pháp nhũ.

 

Do duyên lành hội đủ, chúng con đã có cơ hội thực hiện được ý nguyện qua việc chuyển Trường BộKinh, và đến nay thực hiện chuyển TRUNG BỘ KINH sang thể Thơ đặc thù của Việt Nam là song thất lục bát, từbảndịch Việt ngữ của Cố Hòa Thượng Minh Châu.

 

      Khi Phật còn tại thế, văn tự chưa được sử dụng để ghi chép lời Phật, nên Đức Phật thường dùng lối trùng tụng : Một ý tưởng được Ngài nhắc lại ít nhất 3 lần . Sau khi Phật nhập Niết Bàn 3 tháng,  Tôn-giả  Đại Ca-Diếp ( Mahà Kassapa )triệu tập Đại Hội Kết Tập Tam Tạng lần đầu, qui tụ 500 vị A-La-Hán ; Tôn-giả Ưu-Ba-Ly ( Upali ) trùng tuyên Luật Tạng,còn Tôn-giả Ananda (A-Nan ) trùng tuyên Kinh Tạng. Các Ngài vì lòng tôn kính Đức Phật, tôn kính Giáo Pháp nên không dám thay đổi một lời nào và giữ nguyên lối trùng tụng như khi Phật sinh tiền. Mãi đến kỳ Kết Tập Tam Tạng lần thứ IV, Đại Hội mới quyết định dùng lá buôn để ghi chép toàn bộ ba Tạng : Kinh, Luật, Luận ; nhưng vẫn không dám thay đổi ngôn từ.

 

      Do đó chúng con cố gắng chuyển sang thể thơ và giản lược những  phần nào có thể. Thiết nghĩ với lối thơ đặc biệtViệt Nam này, sẽ khiến những lời dạy của Đức Phật trở nên gần gủi dễ hiểu, dễ nhớ hơn.

 

Sự chuyển đổi từ văn xuôi sang thể thơ không phải là điều đơn giản, có lúc tưởng chừng phải bỏ cuộc vì Ý kinh cao sâu khó diễn tả bằng ngôn ngữ thế gian ; mà còn bị hạn chế trong vần điệu của luật thơ bằng trắc, yêu vận, cước vận, trầm bình thanh, phù bình thanh … Cũng có lúc đã phải vật lộn với chữ nghĩa, khiến sự tìm từ đúng ý để hợp vần không phải là dễ .

 

      Nhưng khi thực hiện việc chuyển thơ Kinh, chúng con vô cùng hoan hỷ và xúc động trước sự cao cả và lòng đại bi đại trí của đức Thế Tôn, mỗi một kinh có một nội dung phong phú khác nhau, nhưng vô cùng súc tích và thâm thúy .

 

      Chúng con thành kính tri ân Chư Tôn Đức Tăng Già nhiều nơi cùng các Thiện Hữu Tri Thức đã chân tình khuyến khích việc làm này ; cũng như công việc chuyển thơ Kinh được thành tựu nhanh chóng nhờ rất nhiều ở sự khích lệ, góp ý của những người thân nhất của chúng con là hiền nội Nghiêm Thủy Ngô thị Nam Phương và hai con: Nghiêm Tịnh Mai Phương Quỳnh, Tâm Hạnh Mai Phương Dung.

 

Phần  phước  thanh cao này , chúng con xin kính thành hồi hướng đến Ân Sư: Cố Hòa ThượngGIỚI NGHIÊM  và Ngài Dịch Sư Kinh Tạng : Cố Trưởng Lão Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU, nguyện giác linh các Ngài  cao đăng thượngphẩm, hồi nhập Ta Bàđểhóa độ chúng sinh và sớm viên thành chí nguyện chứng đạt Vô thượng Bồ đề.

 

      Cầu nguyện chư hương linh : Thân phụ Mai Văn Minh tự Lưu PD Phúc Phương, thân mẫu Nguyễn thị Khanh PD Diệu Khánh, nhạc phụ Ngô Ngọc Của PD Phúc Hải … Cùng tất cả thân bằng quyến thuộc đã quá vãng của các vịđạo tâm, đềuđược sinh về cảnh giới An Lạc, bằng như đang ở nơi an vui thì sự an vui càng tăng tiến thêm.

 

Nguyện hồng ân Tam Bảo  thùy từ  gia hộ  cho các vị Ân nhângóp phần tạo thành tác phẩm này đều được đầy đủ  năm pháp chúc mừng : Sống lâu, dung sắc tươi đẹp, an vui, sức khỏe dồi dào  và trítuệ  sáng  suốt ( Ayu, vanno, sukham, palam, &paññà ) và sở cầu như nguyện ( Yam yam icchitam, tam tam khippameva samicchatu ).

 

      Chúng tôi cũng không quên hồi hướng đến hương linh chư vị Gia Trưởng, Huynh Trưởng vàĐoàn-sinh quá cố của Gia Đình Phật Tử Việt Nam trong nước và hải ngoại ; nhất là cố HTr. cấp Dũng : Như Tâm Nguyễn Khắc Từ  (UV. Nghiên Huấn BHDTƯ) và cố HTr. cấp Dũng : Nhật Thường Nguyễn Quang Tú (Trưởng BHD/ GĐPT Tỉnh Gia Định) là những bậc đàn anh khả kính đã hết lòng dìu dắt chúng tôi trong Tổ chức GĐPT.  Cầu nguyện chư hương linh đều được vãng sinh về cảnh giới An lạc . 

 

      Rất mong Chư Tôn Thạc Đức Tăng Già; mười phương chư Thiện Hữu Tri Thức cùng tùy hỷ trong công việc chuyển thơ kinh này, vì không phải cho riêng cá nhân ai, mà là lợi lạc khắp chúng hữu tình, nếu được phần nào thấu hiểu chánh pháp vi diệu của đấng Đại Giác Thế Tôn qua những lời thơ quê mộc mạc được diễn đạt với cả tấm lòng này.

 

      Cũng rất mong Quý Ngài và Quý vị chỉ dẫn những chỗ sai sót, góp ý sửa chữa để tác phẩm được thập phần tốt đẹp.

 

      Cuối cùng, xin thành kính nguyện đem chút ít công đức này, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sinh, đều trọn thành Phật đạo .

 

California , 12- 12- 2012  –  năm Nhâm Thìn âm lịch.

 

Với tâm chân thành ,

 

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tựTUỆ NGHIÊM

 

 

 

XIN LƯU Ý

  VỀ VIỆC PHIÊN ÂM PHẠN NGỮ  PALÌ 

 

 

- Kính bạch Quý Ngài .  - Kính thưa Quý vị .

 

     Theo ngu ý của chúng tôi, trong văn phạm Palì, những mẫu tự cuối của từ nguyên mẫu gồm : A, À, U, Ù , I, Ì, E, O  thì những mẫu tự  không có ký hiệu dấu ngang (giống như dấu huyền) đều đọc giọng ngắn và như có dấu sắc : á , ú , í . Còn à , ù , ì , e , o được đọc giọng dài và phát âm như  a , u , i , ê , ô … của tiếng Việt, nên chúng tôi xin mạn phép sử dụng phiên âm tùy chỗ, khi dùng như có dấu sắc, khi dùng như không dấu.

 

     Ví dụ : Chữ Magadha, đọc theo lối bình  thường là : Ma-ga-tha, nhưng theo đúng văn phạm Palì phải đọc Má-gá-thá  (giọng ngắn) .

 

     Do đó xin quý Ngài và quý vị không ngạc nhiên khi thấy tại sao một danh từ lúc ghi có dấu sắc, lúc lại không có dấu cho hợp vần. Ví dụ như trong Kinh “Chánh Tri Kiến”số 9, tên Tôn Giả Xá Lợi-Phất, có chỗ phiên âm là Sa-Ri-Pút-Tá, có chỗ ghi là Sa-Rí-Pút-Ta.

 

 

    Thi Hóa Trung Bộ Kinh     ( Tập I )               *MLH –  010A         

 

 

 [ Cũng theo văn phạm Palì , không những động từ phải chia , mà danh từ cũng được chia theo 8 cách ( thay vì phải dùng mạo từ như trong văn phạm Pháp-văn hayAnh-ngữ) , mỗi từ nguyên mẫu gọi là karanta được chia

theo một bảng khác nhau .

     Ví dụ các danh từ nguyên mẫu : magga ( con đường – thuộc á  karanta), hatthi (con voi – í  karanta), bhikkhu (vị Tỳ-khưu hay Tỷ-Kheo – ú  karanta) … đều được chia với số ít (ekavacana) hay số nhiều (bahuvacana) theo 8 cách như : Chủ cách, đối cách, sở hữu cách, sở dụng cách, xuất xứ cách, hô cách . . .

    Một ví dụ khác : Từ nguyên mẫu Bhikkhu, trong Tạng  Palì  thường thấy từ : Bhikkhave !  ( Này các Tỷ Kheo !) đây là thể hô cách ].

 

     Ngưỡng mong chư Tôn Đức và chư Thiện-hữu Tri-thức hoan hỷ thể tất cho những lỗi lầm nếu có .

 

                                                    Kính ghi ,

 

 

 

NGUYỆN VĂN

 

    -  Kính lạy đấng Tam giới Đạo Sư, Tứ sinh Từ Phụ, Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.

 

Đệ tử chí thành đảnh lễ ba ngôi Tam Bảo : Vô thượng Tôn Phật, Vi diệu Chánh Pháp, Thanh tịnh Tăng-Già.

 

Đệ tử lâu đời lâu kiếp, nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nên mãi trôi lăn trong vòng sinh tử.  Nhưng cóđược chút duyên lành gặp được Chánh Pháp vi diệu nhiệm mầu do đấng Thiên Nhân SưĐại Giác Thích Ca Mâu Ni giáo truyền. Lại gặp được Minh sư dẫn dắt để biết đường ra khỏi rừng mê.

 

     Nay đệ tửđem hết lòng thành hướng vềđấng Thích Tôn Từ Phụ cùng mười phương chư vị Thánh Hiền Tăng, khẩn cầu sám hối tất cả tội lỗi kể từ vô thỉ cho đến ngày nay, do thân, khẩu, ý mê lầm tạo tác.

 

Đệ tử không ngại tài hèn trímỏng, phát nguyện chuyển thơ Kinh Trường Bộ, không khỏi lo âu vì sợ ngôn từ thô vụng, ý cạn lời quê có thể lầm sai thánh ý, sai lạc Phật ngôn. Nhưng với tâm chí thành tha thiết, hướng về đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn - với niềm tôn kính vô biên, với sự biết ơn vô hạn trước công đức độ sinh cao cả của Ngài, cầu mong thiện sự này sẽđược viên thành mỹ mãn.

 

Đệ tử nguyện đem chút ít công đức này, chí thành hồi hướng đến chư vị Tổ Sư Hòa Thượng tiền bối hữu công trong việc hoằng truyền Chánh Pháp ; đến Ân Sư và cha mẹ. Cùng hồi hướng đến khắp pháp giới chúng sinh đều được ân triêm hồng ân Tam Bảo đểđược vô lượng an lành và trọn thành Phật đạo.

 

Nam mô thập phương thường trụ Tam Bảo

tác đại chứng minh.

 

    Thi Hóa Trung Bộ Kinh       ( Tập I )    *MLH –  012A         

 

TÁN THÁN TAM BẢO :

 

PHẬT là đấng Toàn Tri Diệu Giác

PHÁP lưu truyền lợi lạc Nhân Thiên

TĂNG Già hòa hiệp, tịnh thiền

Quay về nương tựa, cần chuyên tu trì.

 

NHẤT TÂM ĐÍNH LỄ :

 

1. Namo   Buddhàya :

Kính lễ mười phương ba đời hết thảy chư Phật.

 

2. Namo Dhammàya :

Kính lễ mười phương ba đời hết thảy Tôn Pháp.

 

3. Namo   Sanghàya :

Kính lễ 10 phương ba đời hết thảy Hiền Thánh Tăng.

 

4. Namo Dìpamkaram Buddhàya :

Kính lễ Quá khứ  Nhiên Đăng Phật.

 

5. NamoVipassì  Buddhàya : Kính lễ Tỳ-Bà-Thi Phật.

 

6.Namo Sìkhi Buddhàya :  Kính lễ Thi Khí Phật.

 

7. Namo Vessabhù Buddhàya: Kính lễ Tỳ-Xá-Phù Phật

 

8.  Namo Kakusandham Buddhàya :

Kính lễ Câu-Lưu-Tôn Phật.

 

9.  Namo Konàgamanam Buddhàya  : 

Kính lễ Câu-Na-Hàm Mâu-Ni Phật.

 

10.  Namo Kassapam Buddhàya : Kính lễ Ca-Diếp Phật.

 

11.Namo Sakya Muni Buddhàya  :

Kính lễ Hiện tại giáo truyền Thích Ca Mâu-Ni Phật.   

 

12.  Namo Metteya Bodhisattwa  : 

Kính lễ Vị Lai Phật  Di-Lặc Bồ-tát.

*

13.  Namo Aññà Kondaññam Sàvakàya : Kính lễ

Đệ nhất Hạ Lạp A-Nhã Kiều-Trần-Như  Tôn Giả.

    Thi Hóa Trung Bộ Kinh       ( Tập I )    *MLH –  013A         

 

14.  Namo Mahà Sariputtam Sàvakàya :

Kính lễ Đệ nhất Trí Tuệ  Xá-Lợi-Phất Tôn Giả.

 

15.  Namo Mahà Moggallana  Sàvakàya :  Kính lễ

Đệ nhất Thần Thông Ma-Ha Mục-Kiền-Liên Tôn Giả.

 

16.  Namo Puññà  Mantaniputtam Sàvakàya : Kính lễĐệ nhất Thuyết Giáo Phú-Lâu-Na (Mãn-Từ-Tử)Tôn Giả.

 

17.  Namo Upalì Sàvakàya :

Kính lễĐệ nhất Trì luật Ưu-Ba-Li Tôn Giả.

 

18.  Namo Mahà Kassapam Sàvakàya :

Kính lễĐệ nhất Đầu Đà Ma-Ha Ca-Diếp Tôn Giả.

 

19.  Namo Mahà Kaccayànam Sàvakàya :  Kính lễ

Đệ nhất Luận Nghị Ma-Ha Ca-Chiên-Diên Tôn Giả.

 

20.  Namo Anuruddham Sàvakàya :   Kính lễ

Đệ nhất Thiên Nhãn A-Nậu-Lâu-Đà Tôn Giả.

 

21.  Namo Anandam Sàvakàya :

Kính lễĐệ nhất Đa Văn A-Nan-Đa Tôn Giả.

 

22.  Namo Rahulam Sàvakàya :

Kính lễĐệ nhất Mật Hạnh La-Hầu-La Tôn Giả.

 

23.  Namo Subhuti Sàvakàya :

Kính lễĐệ nhất Giải Không Tu-Bồ-Đề Tôn Giả.

 

24.  Namo Revatam Sàvakàya :

Kính lễĐệ nhất Thiền Định Ly-Bà-Đa Tôn Giả.

 

25.  Namo Sivali Sàvakàya :

Kính lễĐệ nhất Phước Đức Si-Va-Li Tôn Giả.

 

26.  Namo Cùla Panthakam Sàvakàya :   Kính lễ

Đệ nhất Giải Thoát Chu-Lị Bàn-Đà-Già Tôn Giả.

 

27.  Namo Mahà Kotthitam Sàvakàya :   Kính lễ

Đệ nhất Đắc Giải Ma-Ha Câu-Hy-La Tôn Giả.

 

    Thi Hóa Trung Bộ Kinh       ( Tập I )    *MLH –  014A         

 

28.  Namo Uruvela Kassapam Sàvakàya :      Kính lễ

Đệ nhất Lãnh Chúng Ưu-Lâu-Tần-Loa Ca-Diếp Tôn Giả

 

29.  Namo Mahà Kappinam Sàvakàya : Kính lễ

Đệ nhất Giáo Giới Ma-Ha Kiếp-Tân-Na Tôn Giả.

 

30.  Namo Pindola Bhàradvàjam Sàvakàya :   Kính lễ

Đệ nhất Sư-Tử-Hống Tân-Đầu-Lô Phả-La-ĐọaTôn Giả. 

 

31.Namo Lakuntaka Bhaddiyam Sàvakàya –  Kính lễ

Đệ nhất Pháp Âm Kiều-Phạm Ba-Đề Tôn Giả.

 

32.Namo Nandam Sàvakàya –

Kính lễ Đệ nhất Tiết Chế Nan-Đà Tôn Giả.

 

33.Namo Radham Sàvakàya –

Kính lễ Đệ nhất Biện Tài La-Đà Tôn Giả.

 

34.  Namo Veluvanavihàrà Sabba Sàvakàya  –

Nam-mô Trúc Lâm hội thượng chư  Hiền ThánhTăng 

 

35.  Namo Jetavanavihàrà SabbaSàvakàya  –

Nam-mô Kỳ Viên hội thượng chư Hiền Thánh Tăng.

 

36.Namo Gijjhakutavihàrà Sabba Sàvakàya  –

Nam-mô Linh Sơn hội thượng chư Hiền Thánh Tăng.

 

37.  Nam-mô Lịch đại Hoằng truyền Chánh Pháp

chư Hiền Thánh Tăng.

------------------------

38.  Namo Mahà Pajàpati Gotami Sàvakàya : Kính lễ

Đệ nhất Hạ lạp Đại Ái Đạo Kiều-Đàm-Di Thánh Ni.

 

 39.  Namo Khemà Sàvakàya :

Kính lễĐệ nhất Trí Tuệ Khê-Ma Thánh Ni.

 

40.  Namo Uppalavannà Sàvakàya :

Kính lễĐệ nhất Thần Thông Liên-Hoa-Sắc Thánh Ni.

41.  Namo Yasodhara Sàvakàya :

Kính lễ Đại Thần Thông Da-Du-Đà-La Thánh Ni.

 

 

    Thi Hóa Trung Bộ Kinh      ( Tập I )   *MLH –  015A         

 

42.  Namo Dhammadinnà Sàvakàya.  Kính lễ Đệ nhất

         Thuyết Giáo Đam-Ma-Đin-Na Thánh Ni.

 

43.  Namo Pàtàcarà Sàvakàya : Kính lễ Đệ nhất Trì Luật Pa-Ta-Cha-Ra Thánh Ni.

 

44.  Namo Bhaddà  Kàpilàni Sàvakàya : Kính lễ

Đệ nhất Chú Giải  Phách-Đa Ka-Pi-La-Ni Thánh Ni.

 

45.  Namo Bhaddà Kundalakesà Sàvakàya : Kính lễ Đệ

 nhất Luận Nghị Phách-Đa Kun-Đa-La-Kê-Sa Thánh Ni.

 

46.  Namo Kisà Gotami Sàvakàya :   Kính lễ

Đệ nhất  Đầu Đà Ki-Sa Gô-Ta-Mi  Thánh Ni.

 

47.  Namo Sundari Nandà Sàvakàya :   Kính lễ

Đệ nhất Thiền Định Sanh-Đa-Ri-Nan-Đa Thánh Ni.

 

48. Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo.

 

SÁM NGUYỆN :

 

Đệ tử chúng con từ vô thỉ

Gây bao tội ác bởi lầm mê

Đắm trong sinh tửđã bao lần

Nay đến trước đài Vô Thượng Giác

 

Biển trần khổ lâu đời luân lạc

Với sinh linh vô sốđiêu tàn

Sống u hoài trong kiếp lầm than

Con lạc lõng không nhìn phương hướng

Đoàn con dại từ lâu vất vưởng

Hôm nay trông thấy Đạo huy hoàng

Xin hướng về núp bóng Từ quang

Lạy Phật Tổ soi đàng dẫn bước

 

Bao tội khổ trong đường ác trược

Vì tham, sân, si, mạn  gây nên

Thì hôm nay giữ trọn lời nguyền

Xin sám hối để lòng thanh thoát.

 

    Thi Hóa Trung Bộ Kinh      ( Tập I )     *MLH –  016A         

 

Trí Phật quang minh như nhật nguyệt

Từ bi vô lượng cứu quần sinh

Ôi ! từ lâu ba chốn ngục hình

Giam giữ mãi, con nguyền ra khỏi.

Theo gót Ngài vượt qua khổ hải

Nương thuyền từ vượt khỏi Ái hà.

Nhớ lời Ngài : Bờ Giác không xa

Hành Thập Thiện cho đời tươi sáng

Bỏ việc Ác đểđời quang đãng

Đem pháp lành gieo rắc phàm nhân

Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng

Con nguyện được sống đời rộng rãi

Con niệm Phật để lòng nhớ mãi

Hình bóng Người cứu khổ chúng sanh

Để theo Ngài trên bước đường lành

 

Chúng con khổ, nguyền xin cứu khổ

Chúng con khổ, nguyền xin tựđộ

Ngoài tham lam, sân hận ngập trời

Phá si mê, trí tuệ tuyệt vời

Lời Phật dạy đời đời ghi tạc :

 

Nguyện tinh tấn diệt trừđiều Ác

Cố gắng làm tất cả việc Lành

Giữ tâm hồn trong sạch, tinh anh

Nương Pháp Phật tu hành tựđộ

Tứ Diệu Đế chuyển mê khai ngộ

Trợ BồĐề băm bảy pháp tu :

 

- Tứ Chánh Cần nổ lực công phu

- Tứ Niệm Xứ thường hằng niệm tưởng

- Tứ Thần Túc xuất trần cao thượng

- Ngũ Căn cùng Ngũ Lực trợ duyên

- Thất Giác Chi bảy pháp tinh chuyên

- Bát Chánh Đạo thực hành rốt ráo.

 

    Thi Hóa Trung Bộ Kinh      ( Tập I )     *MLH –  017A         

 

Ba Mươi Bảy Pháp lành TrợĐạo

Là con đường duy nhất cho ta

Giải thoát ra khổ cảnh Ta-Bà

Chứng đạo quả Vô Sinh Bất Diệt.

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( 3 L )

*   *   *

TỪ BI NGUYỆN :

Nguyện cầu tám hướng mười phương

Chúng sinh muôn loại hãy thường an vui

Dứt trừ  oan trái  nhiều đời

Bao nhiêu đau khổđến hồi duyên tan

Hại nhau chỉ chuốc lầm than

Mê si điên đảo vô vàn lệ châu

Nguyện cho vô bệnh, sống lâu

Nguyện cho thành tựu, phước sâu đức dày

Nguyện cho an lạc từđây

Dứt trừ thống khổ, đắng cay, oán hờn

Dứt trừ kinh sợ, tai ương

Bao nhiêu phiền não, đoạn trường vĩnh ly

Nguyện cầu Tam Bảo chứng tri

Sống đời thanh tịnh, từ bi vẹn toàn.

 

HỒI HƯỚNG  :

Con xin  hồi hướng phước này

Thấu đến quyến thuộc đâu đây cho tường

Cùng là thân thích tha phương

Hoặc đã quá vãng, hoặc thường hiện nay

Chúng sinh ba giới, bốn loài

Vô tưởng, hữu tưởng, chẳng nài đâu đâu

Nghe lời thành thực thỉnh cầu

Xin mau tựu hội lãnh thâu phước này

Bằng ai xa cách chưa hay

Cầu xin Thiên Chúng báo ngay hiện tiền

Thảy đều thọ lãnh phước duyên

    Thi Hóa Trung Bộ Kinh      ( Tập I )    *MLH –  018A         

 

             Dứt trừ tội lỗi, thoát liền nạn tai

Nguyện nhiều Tăng Chúng đức tài

Đạt thành Thánh quả, hoằng khai đạo lành

Nguyện cho Phật Pháp thịnh hành

Năm nghìn năm chẵn, phước lành thế gian.

 

PHỤC NGUYỆN :

 

 –  Namo Buddhàya  –  Namo Dhammàya ;

–  Namo Sanghàya. 

 –  Namo Sakya Muni Buddhàya.

 

Do thiện sự mà chúng con đã làm, cóđược chút ít phước duyên nào, xin thành tâm hồi hướng đến Chư Thiên, chư Thiện thần Hộ Pháp trong mười muôn triệu thế giới Sa-Bà, nhất là Chư Thiên, Thiện Thần tại Việt Nam và Mỹ Quốc – xin các ngài hoan hỷ thọ nhận và tiếp tục hộ trì Chánh Pháp.

Phổ nguyện : Ánh sáng Giác ngộ rực rỡ, Bánh xe Chánh pháp thường quay, Mưa hòa gió thuận, Thế giới hòa bình, Đất nước mạnh giàu, người người no ấm.

      Cửa Thiền thanh tịnh, Bốn Chúng an hòa. Ân sâu Thầy Tổ&  Cha Mẹ dưỡng sinh – nguyện cho các ngài : càng tăng ruộng phước. Trời, Người ba cõi đều được lợi lạc vô biên.

Thứ nguyện : Âm siêu dương thạnh, biển lặng mây trong. Noản, thai, thấp, hóa - bốn loại chúng sinh, nương theo Phật Pháp tu hành, đều trọn thành Phật Đạo.

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC  :

 

Nguyện đem công đức này     

Hướng về khắp tất cả

Đệ tử và chúng sinh           

Đều trọn thành Phật đạo.

*  *  *

    Thi Hóa Trung Bộ Kinh ( Tập I )  *MLH –  019A         

 

 

 

 

Namo tassa Bhagavato Arahato Sammàsambuddhassa

 

Kính lạy Thế Tôn muôn đời

Là bậc Ứng Cúng – Trời Người quy y

Chứng đắcquảChánh Biến Tri

Tự Ngài giác ngộ, không thầy dạy cho.

 

 

*

**

 

Con xin thành kính đảnh lễ đức Thế Tôn. Ngài là đấng Toàn Tri Diệu Giác, vô lượng Từ Bi. Ngài đã bẻ gãy bánh xe sinh tử luân hồi, đã diệt tận Vô Minh phiền não, là bậc Thầy của cả Chư Thiên và Nhân Loại.

 

      Con xin thành kính đảnh lễ Pháp Bảo, là những phương lương dược, có công năng cứu chữa căn bệnh trầm kha sinh tử của chúng sinh.

 

      Con xin thành kính đảnh lễ Tăng Bảo, là những bậc thừa hành Chánh Giáo, bên ngoài có Y Bát chân truyền, bên trong có Giới Định Tuệ làm căn bản ; dù đã đắc quả thánh (Thánh Tăng) hay còn phàm (Thanh tịnh Tăng) đều gọi là Phước Điền của Chư Thiên và Nhân Loại.

 

 

    Thi Hóa Trung Bộ Kinh         ( Tập I )         *MLH –  020A         

 

 

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp

Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ

Ngã kim kiến văn đắc thọ trì

Nguyện đắc Như Lai chân thiệt nghĩa.

 

Pháp Phật diệu huyền rất cao sâu

Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu

Con nay nghe, thấy chuyên trì tụng

Nguyện giải Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2012(Xem: 5339)
法住天寒極地空花如雪鎖禪扃生死遙程幾許夢回故里 雲行色没浮漚暮影凝烟参晚课唄吟長夜有時聲斷洪洲 Âm: Pháp Trụ thiên hàn cực địa, không hoa như tuyết tỏa thiền quynh, sinh tử diêu trình, kỷ hứa mộng hồi cố lý. Vân hành sắc một phù âu, mộ ảnh ngưng yên tham vãn khóa, bái ngâm trường dạ, hữu thời thanh đoạn hồng châu Ôn dịch nghĩa: Cực thiên Bắc, tuyết dồn lữ thứ, sắc không muôn dặm hoa vàng, heo hút đường về, non nước bốn nghìn năm soi nguồn đạo PHÁP Tận hồng châu, chuông lắng đồi thông, bào ảnh mấy trùng sương đẫm, mênh mông sóng cuộn, dòng đời quanh chín khúc rọi bóng phù VÂN
01/10/2012(Xem: 4456)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3508)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4221)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 11420)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 11326)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3277)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5358)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3564)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3655)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]