Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

97. Kinh Dhànanjàni

19/05/202010:55(Xem: 9769)
97. Kinh Dhànanjàni

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập III
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


97. Kinh DHÀNANJÀNI

( Dhànanjàni sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả

          Đến Vương Xá – Rá-Chá-Ga-Ha  (1)

              Trú tại Vê-Lú-Va-Na  (1)

     ( Trúc Lâm Tinh Xá ) nơi mà không xa

          Ka-Lanh-Đa-Ka-Ni-Vá-Pá  (2)

          Chỗ nuôi sóc vốn đã được thuần.

 

              Bấy giờ, ‘Chánh Pháp Tướng Quân’

       Sa-Ri-Pút-Tá (3) tự thân du hành

          Cùng tịnh thanh Tỷ Kheo các vị,

          Đắc-Khi-Ná-Ghí-Rí – Nam San  (4)

              Ngài và Tăng Chúng trú an.

 

       Sau khi mãn hạ của hàng xuất gia

          Đã trải qua an cư ba tháng

          Một Tỷ Kheo viên mãn hạ kỳ

              Đã từ Vương Xá ra đi

       Đến Đắc-Khi-Ná-Ghi-Ri nơi này

          Khi gặp ngài Sa-Ri-Pút-Tá

          Tức là Xá-Lợi-Phất Thánh Tăng.

              Sau lời thăm hỏi ân cần       

     __________________________

 

(1) : Trúc Lâm Tinh Xá ( Veluvana Vihàra ) tại thành Vương Xá

      ( Ràjagaha ) của vương quốc Ma-Kiệt-Đà ( Magadha ).

(2) : Kalandakanivapa  ( chỗ nuôi dưỡng sóc ).

(3) : Tôn-giả Xá-Lợi-Phất ( Sariputta ) là vị Đại-đệ-tử của Phật,  

     Là bậcĐệ nhất  Trí tuệ và cũng thường được xưng tán là vị

    “Tướng Quân Chánh Pháp”. 

(4) : Một địa danh : Dakkhinagiri – Nam Sơn.

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 97 :  DHÀNANJÀ NI    *  MLH –  388

 

       Vị Phích-Khú liền ngồi gần Thánh Tăng.

          Vị Thánh Tăng hỏi qua tự sự :

    – “ Hiền-giả ! Đức Điều Ngự Thế Tôn

              Có được không bệnh, khỏe không ? ”.

 

 – “ Thưa Tôn Giả ! Đức Thế Tôn hoàn toàn

          Không có bệnh, khinh an pháp thể ”.

 

    – “ Hiền-giả ! Thế còn Chúng Tỷ Kheo

              Có được không bệnh, khỏe đều ? ”.

 

 – “ Thưa Tôn-giả ! Chúng Tỷ Kheo vẫn thường,

          Không có bệnh, an tường khỏe mạnh ”.

 

    – “ Này Hiền-giả ! Danh tánh một vì    

              Bàn-môn Đa-Năng-Cha-Ni  (1)

       Có được không bệnh, mọi thì khỏe chăng ?

          Tại nơi Tăng-Đu-La-Pá-Lá ? ”.  (2)

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Vị Bàn-môn này  

              Cũng không bệnh, sức khỏe đầy ”.

 

 – “ Hiền-giả ! Vị Bàn-môn đây thường thường

          Có an tường và không phóng dật ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Quả thật khó lòng !

              Làm sao mà Bà-la-môn

       Tha-Năng-Cha-Ní (1) lại không như vầy !

          Bàn-môn này thời thời phóng dật

          Ông ta thật ỷ Vua kính tôn

              Bóc lột Gia-chủ Bàn-môn,

       Ỷ thế Gia-chủ Bàn-môn như vầy

          Bóc lột ngay cả Vua từng bước.

          Người vợ trước của ông này là 

    ___________________________

 

(1) : Vị Bà-la-môn tên Dhànanjàni .      (2) : Tandulapala .

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 97 :  DHÀNANJÀ NI    *  MLH –  389

 

              Một người thành tín, nhu hòa

       Gia đình thành tín; nay đà chết đi.

          Vợ sau thì không có thành-tín

          Thuộc gia đình chẳng tín-thành chi ”.

 

        – “ Này Hiền-giả ! Như vậy thì

       Một tin không tốt lành gì, tệ ghê !

          Khi nghe về bản thân Phạm-Chí

          Là Đa-Năng-Cha-Ní như vầy.

              Có thể khi gặp vị này

       Một cuộc đàm thoại diễn bày có khi ”.

 

          Rồi Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Tá

          Trú tại Đắc-Khi-Ná-Ghi-Ri

              Cho đến một thời gian, thì

       Khởi hành đến Vương Xá khi thấy cần.  

          Ở đây, vị Thánh Tăng an trú

          Tại Trúc Lâm – Vê-Lú-Va-Na

              Cách chỗ nuôi sóc không xa.

 

       Tôn-giả Sa-Rí-Pút-Ta thường kỳ  

          Vào buổi sáng đắp y mang bát

          Dáng an lạc, vào Vương-Xá thành

              Tuần tự khất thực an lành.

 

       Lúc ấy, Phạm-Chí Tha-Năng-Cha-Nì

          Đang chỉ huy người nhà vắt sữa

          Đàn bò sữa nuôi tại ngoại thành.

              Ngài Xá-Lợi-Phất tịnh thanh

       Sau khi thọ thực liền dành thời gian

          Khi trên đàng trở về Tinh Xá

          Ghé tư xá vị Bàn-môn ni.

              Phạm-chí Đa-Năng-Cha-Ni.

       Chợt thấy Tôn-Giả Sa-Ri-Pút-Tà 

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 97 :  DHÀNANJÀ NI      *  MLH –  390

 

          Đang từ xa trực chỉ đi tới.

          Khi gặp, ông nói với ngài là :

 

        – “ Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Ta !

       Ngài hãy uống sữa, vào nhà nghỉ chân

          Và chờ đến giờ ăn, dùng ngọ ”.

 

    – “ Này Bàn-môn ! Đừng có bận lòng !

              Hôm nay, ta đã ăn xong.

       Ta sẽ ngồi nghỉ dưới vòng bóng cây,

          Ông có thể đến đây để gặp ”.

 

    – “ Vâng, sẽ gặp Tôn Giả nơi này ”.

 

              Bà-la-môn vâng đáp ngài

       Ăn cơm xong, ông đến ngay nơi mà

          Ngài Sa-Ri-Pút-Ta đợi đó

          Rồi ông ngỏ lời thăm, đón chào

              Những lời thân hữu, xã giao

       Rồi Phạm-chí ấy ngồi vào một bên.

          Vị Tôn-giả hỏi liền Phạm-chí :

 

     – “ Này Tha-Năng-Cha-Ní Bàn-môn !

              Ông có thường phóng dật không ? ”.

 

 – “ Thưa Tôn Giả ! Làm sao không việc này !

          Vì hằng ngày lo toan mọi thứ  

          Nào là sự phụng dưỡng mẹ cha,

              Nuôi dưỡng vợ con trong nhà,

       Phải nuôi đầy tớ hoặc là lao công,

          Trách nhiệm trong đối xử bè bạn,

          Phải cáng đáng xử sự vuông tròn

              Đối với huyết thống bà con,

       Đối với khách khứa, lại còn phải chuyên

          Trách nhiệm với tổ tiên đã khuất,       

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 97 :  DHÀNANJÀ NI      *  MLH –  391

 

          Với các bậc Chư Thiên quanh ta,

              Trách nhiệm với Vua, hoàng gia.

       Thân này cũng phải trải qua trau dồi,

          Làm thỏa mãn đồng thời trưởng dưỡng ”.

 

    – “ Này Bàn-môn ! Suy tưởng thế nào ?

              Nếu có người vì mẹ cha,

       Các điều phi pháp hắn ta đều làm,

          Hoặc là làm những điều bất chánh,

          Do ác duyên, thọ lảnh khổ sầu

              Quỷ sứ mã diện ngưu đầu

       Kéo y đến địa ngục sâu A-Tỳ,

          Người ấy làm được gì khi nói :

         ‘Tôi mong mỏi phụng dưỡng mẹ cha,

              Vì nuôi vợ con trong nhà,

       Phải nuôi đầy tớ hoặc là lao công…

          Nên vướng vòng phi pháp, bất thiện

          Chớ để các mã diện ngưu đầu  (1)

              Kéo tôi vào địa ngục sâu’.

 

       Hay là cha mẹ hoặc dầu vợ con 

          Hoặc đầy tớ lao công người đó…

          Làm được gì khi họ nói là :

             ‘Con tôi  hay là chồng & cha 

       Hoặc chủ nhân đó thật ra chỉ vì

           Nuôi chúng tôi, thực thi việc ác

           Làm các điều phi pháp, bất nhân

               Chớ để quỷ sứ ma quân

       Kéo vào địa ngục, chịu phần khổ đau’.

    ______________________

 

( ) ; Ngưu đầu mã diện : đầu trâu mặt ngựa . Theo tín ngưỡng

      dân gian, những ‘địa ngục quân’ được mô tả với diện mạo

      như thế. 

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 97 :  DHÀNANJÀ NI      *  MLH –  392

 

          Ông nghĩ sao sự việc như thế ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Không thể kêu cầu

              Quỷ sứ vẫn quăng y vào

       Địa ngục, dù có kêu gào khóc than ”.

 

    – “ Này Bàn-môn ! Hoàn toàn đúng vậy.

          Hoặc người ấy làm được điều gì

              Khi người ấy cứ nằn nì :

     ‘Tôi vì quyến thuộc hoặc vì bạn thân,

          Vì khách tân, tổ tiên phụng tự,

          Vì phụng sự Chư Thiên, Quốc vương,

              Nên mới làm chuyện bất lương

       Phi pháp, bất chánh mọi đường vướng sâu.

          Chớ để các ngưu đầu mã diện

          Kéo tôi đến địa ngục khổ sầu’.

              Bàn-môn ! Ông nghĩ thế nào ? ”.

 

 – “ Thưa ngài ! Mã diện ngưu đầu chẳng tha,

          Quăng ông ta vào ngục để trị ”.

 

    – “ Này Đa-Năng-Cha-Ní ! Nghĩ sao ?

              Có người muốn được sang giàu,

       Muốn thân sung sướng, đắm sâu dục trần,

          Vì trưởng dưỡng cái thân uế tạp,

          Làm các điều phi pháp, bất nhân

              Do làm điều ác các phần

       Quỷ sứ đến bắt do nhân ác này

          Thì người này & bạn bè & quyến thuộc

          Liền vào cuộc, van nài nói rằng :

             ‘Vì muốn thỏa mãn dục trần,

       Vì muốn trưởng dưỡng bản thân ; người này

          Đã từng gây những điều bất chánh,

          Không diệt tránh phi pháp điều nào.

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 97 :  DHÀNANJÀ NI      *  MLH –  393

 

              Chớ để mã diện ngưu đầu  

       Kéo vào địa ngục, khổ sầu cho y’. 

          Ông nghĩ gì về sự việc ấy ? ”.         

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Chẳng chạy thoát đâu !

              Ma quân mã diện ngưu đầu

       Vẫn quăng vào địa ngục sâu A-Tỳ ”.

 

    – “ Này Đa-Năng-Cha-Ni ! Ông nghĩ  

          Thế nào khi một vị trải qua

              Đã vì phụng sự mẹ cha

       Làm điều phi pháp, đều là bất nhân.

 

          Hay thiện nhân làm điều chân chánh

          Luôn luôn tránh phi pháp điều gì.

              Thì trong hai người thực thi

       Ai là tốt đẹp, ai thì hơn xa ? ”.  

 

    – “ Thưa Sa-Ri-Pút-Ta Tôn-giả !

          Người nào đã vì mẹ vì cha

              Làm điều phi pháp, xấu xa,

       Làm điều bất chánh, không ra chi rồi !

          Trái lại, người vì cha vì mẹ

          Làm những điều hợp lẽ, chánh chân

              Người này tốt đẹp muôn phần,

       Hành trì đúng pháp, quý trân hơn nhiều

          So những người làm điều phi pháp,

          Hành trì các hành động bất lương ”.

 

        – “ Này Bàn-môn ! Thật an tường

       Khi hành động với con đường chánh chân,

          Đúng pháp và có nhân như thế.

          Để có thể phụng dưỡng mẹ cha

              Mà không làm ác, xấu xa

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 97 :  DHÀNANJÀ NI      *  MLH –  394

 

       Làm các thiện hạnh thật là thanh cao.

 

          Còn ông nghĩ thế nào người đó 

          Vì vợ con, đầy tớ lao công  

              Bạn bè thân hữu cậy trông,

       Bà con huyết thống, khách trong gia đình,

          Vì tổ tiên của mình & Thiên Chúng,

          Vì Vua chúa… nên dụng kế làm

              Các điều phi pháp, ác gian,

       Các điều bất chánh, việc toàn xấu xa.

          Này Bàn-môn ! Xảy ra như thế   

          Ông nghĩ sao chuyện kể vừa qua ? ”.

 

        – “ Thưa ngài Sa-Ri-Pút-Ta !

       Người vì huyết thống  hay là vợ con

          Vì đầy tớ lao công, bè bạn,

          Vì khách tân, quá vãng tổ tiên,

              Vì Vua chúa, vì Chư Thiên…

       Làm điều phi pháp chẳng hiền, bất nhân.

 

          Nếu so với thiện nhân sau trước 

          Vì những người đã được nêu trên

              Làm điều chân chánh, thiện hiền,

       Các điều đúng pháp… Dĩ nhiên người này

          Tốt đẹp hơn người hay làm ác

          Người hành trì phi pháp, bất lương ”.

 

        – “ Này Bàn-môn ! Thật an tường  

       Khi hành động với con đường chánh chân,

          Đúng pháp và có nhân, ưu điểm

          Có thể làm trách nhiệm chu toàn.

              Với tất cả người cưu mang

       Hay với Vua chúa, các hàng Chư Thiên

          Mà tuyệt nhiên không làm điều ác

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 97 :  DHÀNANJÀ NI      *  MLH –  395

 

          Làm được các thiện hành mọi thì.

 

              Cũng vậy, Tha-Năng-Cha-Ni !    

       Người muốn thỏa mãn, chỉ vì bản thân    

          Muốn trưởng dưỡng cái thân uế tạp

          Làm các điều phi pháp, bất nhân

              So sánh với những thiện nhân

       Cũng vì trưởng dưỡng bản thân của mình

          Nhưng giữ gìn không làm điều ác

          Các thiện hành tạo tác trải qua,

              Thì tốt đẹp hơn người mà

       Làm điều phi pháp, gian tà bất lương ”.

 

          Vị Bàn-môn tận tường nghe rõ   

          Liền hoan hỷ tín thọ thật thà

              Lời ngài Sa-Ri-Pút-Ta,

       Đứng dậy từ giả rồi ra đi liền.

 

          Bàn-môn trên, Đa-Năng-Cha-Ní

          Thời gian sau, do bị bệnh nhiều

              Khổ vì trọng bệnh sớm chiều,

       Nên nhờ người khác một điều thực thi :

 

    – “ Nhờ ông đi đến nơi trú xứ

          Vào hương thất Điều Ngự Phật Đà

              Khi đến, hãy nhân danh ta

       Là Phạm-Chí Đa-Năng-Cha-Ni này

          Bị trọng bệnh hiện nay rất tệ,

          Xin cúi đầu đảnh lễ Phật Đà.

              Rồi ông hãy tiếp tục đi

       Đảnh lễ Tôn Giả Sa-Ri-Pút-Tà

          Thưa ngài là : ‘Tha-Năng-Cha-Ní

          Hiện đang bị bệnh nặng khổ đau.

              Ông ta thành kính cúi đầu

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 97 :  DHÀNANJÀ NI      *  MLH –  396

 

       Đảnh lễ Tôn-giả, và sau thưa là :

          Xin Sa-Ri-Pút-Ta Tôn-giả

          Thương xót, đến trú xá của ông

              Đa-Năng-Cha-Ni Bàn-môn ”.

 

 – “ Vâng ! Tôi sẽ chuyển điều ông nhờ này ”.

 

          Người ấy liền đi ngay đến chỗ      

          Đấng Từ bi cứu khổ Phật Đà

              Đảnh lễ Phật rồi thưa qua

       Những lời Phạm-Chí thiết tha yêu cầu.

          Rồi cáo từ, qua mau trú xá

          Của Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Ta

            ( Đệ nhất Trí tuệ, từ hòa )

       Đảnh lễ Tôn-giả, nói ra những phần

          Mà Bàn-môn Đa-Năng-Cha-Ní

          Đã dặn, rồi thưa vị Thánh Tăng :

        – “ Xin Tôn-giả vì lòng nhân,

       Từ bi thương xót quang lâm đến nhà

          Phạm-chí Tha-Năng-Cha-Ni ấy ”.  

          Khi nghe vậy, Tôn-giả trí minh  

              Nhận lời bằng cách làm thinh.

       Sau đó, Tôn-giả một mình đi sang

          Nhà Bàn-môn Tha-Năng-Cha-Ní,

          Ngài ngồi vào vị trí sẵn dành,

              Rồi hỏi Bàn-môn ngọn ngành :

 

 – “ Đa-Năng-Cha-Ní ! Bệnh hành ra sao ?  

          Ta mong ông chịu đau, kham nhẫn

          Mong khổ thọ được giảm thiểu đi

              Không có gia tăng mọi thì ”.

– “ Thưa ngài Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Tà !   

          Tôi không thể nào mà kham nhẫn,

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 97 :  DHÀNANJÀ NI      *  MLH –  397

 

          Tôi không thể chịu đựng, chống ngăn

              Thống khổ của tôi gia tăng 

       Không hề giảm thiểu, toàn thân đau nhừ.

          Thưa Tôn-giả ! Ví như một kẻ

          Lực sĩ trẻ chém đầu một người

              Với thanh gươm sắc bén ngời,

       Cũng vậy, những ngọn gió thời khủng kinh

          Thổi đau nhói ình ình trong óc

          Đau đớn khiến muốn khóc than thôi !

              Tôi không thể kham nhẫn rồi !

       Không thể chịu đựng. Khổ thời gia tăng

          Sự gia tăng rõ rệt, không dịu

          Khổ không hề giảm thiểu xảy ra.

 

              Thưa ngài Sa-Ri-Pút-Ta !

       Như lực sĩ lấy nịt da cứng dày

          Quấn nịt này quanh đầu kẻ khác

          Rồi siết chặt, như nát tan đầu

              Một cách kinh khủng khổ sầu

       Đầu tôi cũng vậy, nhức đau khôn cùng.

 

          Hoặc là dùng ví dụ một kẻ

          Là đồ tể thiện xảo, hay là

              Một người đệ tử ông ta

       Cắt ngang bụng của người mà được giao

          Với con dao cắt thịt bò, lợn

          Sắc bén tợn. Cũng vậy, tương đồng

              Ngọn gió kinh khủng tấn công

       Cắt ngang bụng của tôi trong tức thì.

 

          Hoặc ví như hai vì lực sĩ   

          Nắm thật kỹ cánh tay một người

              Yếu ớt hơn, rồi tức thời

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 97 :  DHÀNANJÀ NI      *  MLH –  398

 

       Nướng y trên hố than nơi lửa hừng,

          Sức nóng bừng nơi tôi khủng khiếp 

          Không thể chịu đựng tiếp nữa đâu !

              Không thể kham nhẫn, chịu đau

       Tôi bị thống khổ ập vào ngày đêm,

          Gia tăng thêm, không hề giảm thiểu

          Tôi phải chịu thống khổ mọi thì ”.

 

        – “ Bàn-môn Đa-Năng-Cha-Ni !

       Bàng sanh & địa ngục – nơi gì tốt hơn ?

 

    – “ Thưa ! Bàng sanh tốt hơn địa ngục ”.

 

    – “ Rồi tiếp tục : Ngạ quỷ & bàng sanh

              Cảnh nào tốt hơn tạo thành ? ”.

 

 – “ Thưa ngài ! Ngạ quỷ đã đành tốt hơn ”. 

 

    – “ Nào tốt hơn giữa Người & ngạ quỷ ? ”.  

 

    – “ Người tốt hơn ngạ quỷ khổ phiền ”.

 

        – “ Loài Người & Tứ Thiên Vương Thiên

       Nơi nào tốt đẹp, hơn liền phước duyên ? ”.

 

    – “ Thưa ! Tứ thiên vương Thiên cảnh giới

          Tốt đẹp hơn cảnh giới loài Người ”.

 

        – “ Còn Tứ Thiên Vương cõi trời

       So với Đao Lợi cõi trời, đâu hơn ? ”.

 

    – “ Thưa ! Đao Lợi tốt hơn gấp mấy

          Tứ Thiên Vương nơi ấy cõi Thiên ”.

 

        – “ Bàn-môn ! Còn Dạ-Ma Thiên

       So với Tam Thập Tam Thiên thế nào ? ”.

 

     – “ Thưa Tôn Giả ! Trước sau nói tới 

          Thì Đao Lợi thua cõi Dạ-Ma ”.

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 97 :  DHÀNANJÀ NI      *  MLH –  399

 

        – “ Dạ-Ma với Tu-Si-Ta

       Tức cõi trời Đâu-Suất-Đà Thiên đây

          Thì cõi nào tốt hay hơn cả ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Đâu-Suất-Đà Thiên     

              Tốt hơn cõi Dạ-Ma Thiên ”.

 

 – “ Còn so Đâu-Suất-Đà Thiên cõi trời

          Với cõi trời Hóa Lạc Thiên ấy

          Thì ông thấy nơi nào tốt hơn ? ”.

 

        – “ Tôn-giả ! Nếu nói chánh chơn

       Cõi trời Hóa Lạc tốt hơn mọi thời ”.

 

    – “ Thế cõi trời Hóa Lạc Thiên ấy

          Với Tha Hóa Tự Tại cõi trời

              Nơi nào tốt hơn, rạng ngời ? ”.

 

 – “ Tha Hóa Tự Tại cõi trời tốt hơn ”.  

 

    – “ Này Bàn-môn ! Tha-hóa-tự-tại  

          So với lại Phạm Thiên giới này

              Chỗ nào tốt hơn như vầy ? ”.

 

 – “ Tôn-giả ! Phạm Thiên giới ngài nói qua

          Ngài Sa-Ri-Pút-Ta vừa nói :

         ‘Phạm Thiên-giới ! Tôi hỏi phải không ? ”.

 

              Tôn-giả thấy vị Bàn-môn

       Tha-Năng-Cha-Ní hỏi dồn, hân hoan.

          Ngài thầm nghĩ : ‘Các Bàn-môn hiện

          Rất ái luyến Phạm-Thiên-giới này

              Vậy ta hãy thuyết giảng ngay

       Con đường cộng trú lâu dài Phạm Thiên’.

        “ Này Bàn-môn ! Hãy chuyên tác ý

          Ta giảng kỹ con đường là duyên

              Đưa đến cộng trú Phạm Thiên ”.    

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 97 :  DHÀNANJÀ NI      *  MLH –  400

 

 – “ Thưa vâng ! Ngài hãy tự nhiên trình bày ”.  

 

    – “ Tha-Năng-Cha-Ni này ! Yếu tố

          Thế nào là đạo lộ làm duyên

              Đưa đến cộng trú Phạm Thiên ? 

       Đa-Năng-Cha-Ní ! Thiện duyên đủ đầy

          Vị Tỷ Kheo ở đây an trú

          Biến mãn tâm câu hữu với Từ

              Bốn phương : nam, bắc, đông, tây

       Hướng trên, hướng dưới cũng tày bề ngang

          Khắp phương xứ vị này an trú

          Biến mãn tâm câu hữu với Từ

              Quảng đại , vô biên như như

       Không sân, không hận, tâm Từ vui an.

 

.      Cũng như thế, hoàn toàn cảm thụ

          Vị Tỷ Kheo an trú muôn phương

              Cùng khắp thế giới vô lường

       Biến mãn , câu hữu thường thường với Bi

          Cũng như thế , đồng thì với Hỷ

          Rồi với Xả ; thì vị Tỷ Kheo

              An trú biến mãn duyên theo

       Với tâm câu hữu cũng đều với Bi

          Trú biến mãn khắp vì  Hỷ, Xả

          Không hận, sân, rộng cả, diệu vi.

              Bàn-môn Tha-Năng-Cha-Ni !

       Hình thức sự sống tỏa đi muôn chiều

          Không một ai Tỷ Kheo bỏ sót

          Không biến mãn, giải thoát suy tầm

              Cùng khởi Tứ Vô Lượng Tâm :

       Từ, Bi, Hỷ, Xả  diệu thâm vô lường.

 

          Đây chính là con đường đưa tới  

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 97 :  DHÀNANJÀ NI      *  MLH –  401

 

          Để cộng trú cùng với Phạm Thiên ”. 

 

        – “ Vậy xin Tôn-giả cảm phiền

       Thay tôi đảnh lễ phước điền Thế Tôn

          Thật kính tôn, nói lời cảm thán :

         ‘Bạch Thế Tôn ! Đa-Nắng-Cha-Ni

              Bàn-môn trọng bệnh trầm trì

       Thống khổ do bệnh, nơi ni cúi đầu

          Đảnh lễ sâu đấng Vô Thượng Sĩ ”. 

 

          Ngài Tôn-giả Sa-Rí-Pút-Ta

              Dẫu biết nhiều cảnh giới mà

       Cao thượng, cần phải chứng qua các miền,

          Nhưng thuận duyên an trú Phạm-chí

          Là Tha-Năng-Cha-Ní vào đây

            ( Phạm-Thiên-giới thấp kém này )

       Từ ghế đứng dậy, rồi ngài ra đi.

 

          Ông Đa-Năng-Cha-Ni bệnh nặng

          Không bao lâu, mệnh tận qua đời

              Sinh Phạm-Thiên-giới cõi trời.

 

       Nhân sự việc ấy nhiều người biết qua

          Đức Phật Đà gọi Chúng Phích-Khú :

 

    – “ Chư Phích-Khú ! Dẫu biết rõ là

              Có những cảnh giới cao xa

       Cao thượng hơn, cần chứng và sinh qua

          Nhưng Sa-Ri-Pút-Ta hướng dẫn

          Cho Bàn-môn Tha-Nắng-Cha-Ni

              Vào Phạm-Thiên-giới thấp ni,

       Sau đó đứng dậy, ra đi tức thì ”.

 

          Ngài Tôn-giả Sa-Ri-Pút-Tá

          Sau đó đến hương xá Thế Tôn 

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 97 :  DHÀNANJÀ NI      *  MLH –  402

 

              Chí thành đảnh lễ kính tôn

       Một bên ngồi xuống, nhu ôn thưa rằng :

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Tha-Năng-Cha-Ní

          Vị Phạm-Chí này đã từ trần

              Do bệnh trầm trọng hành thân

       Kính lời đảnh lễ dưới chân Phật-Đà ”.

 

    – “ Này Sa-Ri-Pút-Ta ! Nguyên cớ     

          Ông khiến Bàn-môn lỡ cơ duyên

              Dẫu biết các cảnh giới riêng

       Cao thượng, cần phải ưu tiên đạt vào

          Vậy tại sao ông lại tự chủ

          Cho Bàn-môn an trú vào liền

              Cảnh giới thấp kém Phạm Thiên ?

       Sau đó đứng dậy và liền ra đi ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Tại vì con thấy  

          Bàn-môn ấy tư tưởng tương liên  

              Vô cùng ái luyến Phạm Thiên

       Một lòng hướng đến Phạm-Thiên-giới này,

          Nên con mới trình bày diễn tiến

          Con đường khiến cộng trú Phạm Thiên ”.

 

        – “ Xá-Lợi-Phất ! Vậy cho nên 

       Đa-Năng-Cha-Ní sinh liền Phạm cung ” ./-

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt  Kinh  số 97  :  DHANANJÀNI  Sutta )

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2012(Xem: 5339)
法住天寒極地空花如雪鎖禪扃生死遙程幾許夢回故里 雲行色没浮漚暮影凝烟参晚课唄吟長夜有時聲斷洪洲 Âm: Pháp Trụ thiên hàn cực địa, không hoa như tuyết tỏa thiền quynh, sinh tử diêu trình, kỷ hứa mộng hồi cố lý. Vân hành sắc một phù âu, mộ ảnh ngưng yên tham vãn khóa, bái ngâm trường dạ, hữu thời thanh đoạn hồng châu Ôn dịch nghĩa: Cực thiên Bắc, tuyết dồn lữ thứ, sắc không muôn dặm hoa vàng, heo hút đường về, non nước bốn nghìn năm soi nguồn đạo PHÁP Tận hồng châu, chuông lắng đồi thông, bào ảnh mấy trùng sương đẫm, mênh mông sóng cuộn, dòng đời quanh chín khúc rọi bóng phù VÂN
01/10/2012(Xem: 4456)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3508)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4220)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 11420)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 11326)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3277)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5358)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3564)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3655)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]