Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

98. Kinh Vàsettha

19/05/202010:56(Xem: 8948)
98. Kinh Vàsettha

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập III
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


98. Kinh VÀSETTHA

( Vàsettha sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Chánh Đẳng

          Trú tại Ích-Cha-Nắng-Ka-La  (1)

            ( Tức Y-Xa-Năng-Gia-La )  

       Rừng Ích-Cha-Nắng-Ka-La một thời.

          Lúc bấy giờ gần nơi rừng ấy

          Nhiều Bàn-môn thông thái, trứ danh

              Nhiều đại phú hào khôn lanh

       Ở tại làng ấy, tiếng lành đồn xa :

          Ta-Rút-Kha (2), Chân-Ky (2) Phạm-chí

          Pốt-Kha-Ra-Sa-Tí  (2) Bàn-môn

              Hay Tô-Đây-Gia  (2) Bàn-môn

       Cha-Nút-Sô-Ni  (2) Bàn-môn … các nhà

          Cùng Phạm-chí, Phú gia nhiều nữa .

 

           Lúc bấy giờ , trang lứa thanh niên

              Cùng nhau tản bộ hoa viên

       Vừa đi vừa nghĩ sự duyên đáng bàn

          Rồi hai chàng Bàn-môn  anh tuấn

          Đã nghị luận quanh chuyện gần xa

              Khởi lên giữa Va-Sết-Tha  (3)

       Cùng với Pha-Rát-Va-Cha (3) – bạn chàng

    ______________________________

 

          *  Bàn-môn  hay  Phạm-chí  tức là Bà-la-môn .

(1) : Địa phương và rừng Icchanankala.

(2): Các vị Bà-la-môn :Tàrukkha (Đa-lê-xa), Canki (Thương-già),

        Pokkharasàti (Phí-già-la-bà-la) , Todeyya (Đạo-đề-đa) .

       Jànussoni (Sanh Lậu).

(3) : Hai thanh niên Bà-la-môn : Vàsettha và Bharadvàja .

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  404

 

          Câu chuyện mà hai chàng luận nghị :

         ‘Thế nào là một vị Bàn-môn ?’.

 

              Pha-Rát-Va-Cha ôn tồn   

       Nói rằng : “ Một Bà-La-Môn tạo thành

          Được thiện sanh từ phụ & mẫu hệ

          Có liên hệ huyết thống tịnh thanh

              Bảy đời Tổ phụ chính danh,

       Không bị chỉ trích thọ sanh di truyền ”.

 

          Nhưng thanh niên Va-Sết-Thá nói :

 

    – “ Vị được gọi Bà-La-Môn này

              Phải có giới hạnh đủ đầy

       Tựu thành các cấm giới ngay mọi thì ”.

 

          Mỗi thanh niên đều vì thiên kiến

          Trong câu chuyện họ đang luận tranh

              Với ý kiến của mỗi anh

       Không ai chấp nhận, chỉ dành ý riêng.

 

           Sau, thanh niên tên Va-Sết-Thá

          Bảo Pha-Rát-Va-Chá  ý này :

            “ Này bạn ! Tôi nghe gần đây

       Sa-Môn Thích Tử đủ đầy tinh hoa

          Giòng Thích-Ca, xuất gia chứng ngộ

          Ngài có họ là Gô-Ta-Ma

              Hiện đang an trú không xa

       Rừng Ích-Cha-Nắng-Ka-La nơi này.

 

          Tại nơi đây Tôn Giả an trú

          Cùng với Chúng Phích-Khú (Tỷ Kheo )

              Đệ tử ngưỡng mộ vâng theo

       Trí và Giới đức thảy đều nghiêm minh

          Mười tôn hiệu uy linh diệu ngữ :

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  405

 

          Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu,

              Phật, Thế Tôn, Thiên Nhân Sư,

       Chánh Đẳng Chánh Giác đại từ uy linh

          Vô Thượng Sĩ  hay Minh Hạnh Túc,

          Bậc Thiện Thệ, Ứng Cúng, Như Lai,       

              Do sự chứng ngộ tự Ngài

       Xứng đáng cho chúng ta đây thân hành 

          Đến yết kiến hỏi rành nghĩa lý

          Ngài trả lời, ta chỉ thọ trì ”.

 

              Anh kia đồng ý tức thì     

       Hai Bàn-môn trẻ cùng đi đến rừng

          Gặp Thế Tôn, chào mừng thăm hỏi

          Lời chúc tụng họ nói xã giao.

              Sau khi cả hai đã chào

       Đến chỗ ngồi xuống, hỏi vào sự duyên.

          Va-Sết-Tha thưa liền bằng kệ

          Với Thế Tôn Thiện Thệ tức thời :

 

 – “ Chúng con, với cả hai người

       Được tôn xưng, nhận những lời ngợi ca

       Là bậc thông thái, hiểu xa

       Suốt cả ba tập Vệ-Đà tường tri

       Con là đệ tử của vì

       Tên Pốc-Kha-Rá-Sa-Tì (1) Bàn-môn.

       Ngài Ta-Rút-Khá (1) đáng tôn

       Là thầy của vị Bàn-môn trẻ này.

 

       Vệ-Đà nghĩa lý sâu dày

       Chúng con đều thông đạt ngay rõ ràng.

       Văn cú, văn phạm luận bàn

    __________________________

 

(1) : Hai vị thầy Bà-la-môn : Pokkharasàti và Tarukkha . 

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  406

 

       Chúng con thấu hiểu dễ dàng khoan thư.

       Thuyết giảng, giải thích ngữ từ

       Thật giống với bậc Đạo Sư an hòa.

 

       Thưa Tôn Giả Gô-Ta-Ma !

       Chúng con hai đứa vừa qua luận bàn

       Có sự tranh luận dở dang

       Về việc Phạm-Chí các hàng trải qua

       Bạn con : Pha-Rát-Va-Cha

       Bảo do sự ‘thọ sanh’ mà có danh

      ‘Bà-La-Môn’ được tạo thành.

       Nhưng con bảo : Do ‘hành động’ riêng

       Mà thành Bà-La-Môn liền.

 

       Mong bậc Pháp nhãn vô biên Phật Đà   

       Hiểu sự việc đã xảy ra

       Vì cả hai đứa tỏ ra cứng đầu,

       Không thể thuyết phục được nhau

       Nên cùng đi đến để mau hỏi Ngài

       Bậc Chánh Đẳng Giác Như Lai.

 

       Như mặt trăng được tròn đầy, không mây

       Quần chúng đến để chắp tay

       Đảnh lễ, chiêm ngưỡng trăng đây sáng ngời.

       Cũng như vậy, ở trong đời

       Quần chúng đảnh lễ, hết lời ngợi ca

       Vị Tôn Giả Gô-Ta-Ma.

 

       Chúng con xin hỏi trải qua tạo thành

       Bà-La-Môn do thọ sanh ?

       Hay do hành động chính mình làm ra ?

       Chúng con không biết đâu là !

       Nay kính xin đức Phật Đà giảng ra ”.

       Thế Tôn liền thuyết an hòa :

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  407

 

 – “ Này thanh niên Va-Sết-Tha ! Nghe này !

       Ta trả lời cho ông ngay  

       Thuận thứ, như thật, trình bày phân minh.

       Sự phân loại là do sinh

       Của khắp các loại hữu tình xưa nay.

 

       Chính do sự sinh đẻ này

       Mà có dị loại. Như cây, cỏ gì

       Dẫu chúng không nhận thức chi

       Nhưng chúng có tướng, đến thì thọ sinh

       Nên có dị loại do sinh.

 

       Hãy xem các loại sinh linh khắp cùng :

       Các loại kiến, các côn trùng,

       Bướm đêm… Chúng có tướng dùng thọ sanh

       Do sinh, dị loại tạo thành.

 

       Hãy xem có loại chúng sanh ( như bò )

       Bốn chân, loại nhỏ loại to

       Tướng thọ sinh, dị loại do sinh này.     

 

       Hãy xem loài bò sát đây 

       Loài lươn, loài rắn, lưng dài… khắp nơi.

       Các loại cá sông, biển khơi

       Sinh sống trong nước. Bầu trời loài chim.

 

       Có tướng thọ sinh ẩn tiềm

       Do sinh, có dị loại liền trải qua

       Tùy theo sự thọ sinh, mà

       Chúng có tướng-tùy-sanh qua mọi thời.

 

       Nhưng trong thế giới loài Người

       Tướng sinh không có nhiều nơi như vầy

       Không ở mái tóc, ở tai,

       Ở đầu, ở mắt, lông mày,mũi, môi,

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  408

 

       Không ở cổ, nách, mồ hôi,

       Không ở bụng, ngực, hoặc nơi cửa mình,

       Không ở lưng, ở dâm tình,

       Không ở ngón, móng, tay mình hoặc chân,

       Không ở vế, gối, cổ chân,

       Không ở sắc, tiếng… mọi phần định danh.

 

       Không tướng và do tùy sanh

       Dị loại sai khác, tùy sanh thời kỳ

       Trên tự thân con người thì

       Không chi đặc biệt, chỉ tùy danh xưng

       Được gọi loài Người đặc trưng

       Đối với người tự không ngừng mưu sinh,

 

       Chăn bò, cày ruộng đất mình

       Này Va-Sết-Thá ! Đinh ninh biết là

       Kẻ ấy là người nông gia,

       Không phải kẻ ấy là Bà-La-Môn.

 

       Ai sống nghề nghiệp sinh tồn

       Hãy biết kẻ ấy là công nhân mà !

       Không phải Bàn-Môn thế gia.

 

       Ai sống buôn bán gần xa thứ cần

       Kẻ ấy là người thương nhân

       Không phải Phạm-Chí. Ai hằng trải qua

 

       Hầu hạ giai cấp cao xa

       Là người nô bộc, không là Bàn-Môn.

 

       Ai sống trộm cắp sinh tồn

       Là người trộm cắp, Bàn-Môn chẳng là.

 

       Ai người cung tên, chiến xa

       Là người quân đội, không là Bàn-Môn.

 

       Ai người tế tự làm tròn

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  409

 

       Tế quan – Không phải Bàn-Môn trên đời.

 

       Ai sống giữa chốn loài Người

       Thọ hưởng dục lạc, ở ngôi trị vì

       Là hàng vua chúa quyền uy

       Cai trị cả nước, kinh kỳ, làng thôn,

       Không phải là Bà-La-Môn.  

 

       Như Lai không gọi Bàn-Môn người nào

       Chỉ vì do thọ sanh đâu !

       Dầu cho vị ấy thật giàu, cao sang

       Nhưng còn ham lợi thế gian.

 

       Người mà thế lợi không màng, tâm yên

       Kẻ ấy Ta mới gọi tên

       Bà-La-Môn ấy vững bền chính danh.

 

       Đoạn tận kiết sử chẳng lành

       Không ai không sợ hãi dành kẻ đây,

       Siêu việt mọi chấp-trước vầy,

       Thoát ly các hệ phược đầy xấu xa,

       Kẻ ấy Ta mới gọi là

       Chính danh Phạm-Chí, tức Bà-La-Môn.

 

       Cắt dây thừng, dây ách xong

       Dây cương, dây trói cũng không còn gì

       Cây chắn ngang, gỡ quăng đi,

       Kẻ ấy Ta gọi một vì suốt thông

       Giác ngộ, đáng gọi Bàn-Môn.  

 

       Ai không lỗi, chịu đựng trong mọi điều

       Nhiếc mắng, đánh trói bao nhiêu

       Cũng đều kham nhẫn, cũng đều không sân,

       Trang bị với nhẫn lực phần

       Ta gọi vị ấy ‘tinh cần Bàn-Môn’.

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  410

 

       Không phẫn nộ, giới vuông tròn,

       Có giới hạnh, họ không còn mạn kiêu

       Thân tối hậu, nhiếp phục điều,

       Vị ấy đáng gọi sớm chiều Bàn-Môn.

 

       Như nước trên lá sen tròn

       Hạt cải trên đỉnh nhọn, còn giữ yên

       Không tham luyến dục vọng phiền

       Bà-La-Môn – Ta gọi liền chính danh.

 

       Ai biết đời này chẳng lành

       Vì ngã đoạn tận tạo thành khổ đau,

       Gánh nặng được đặt xuống mau,

       Xa lìa các hệ phược sâu nặng này,

       Kẻ ấy Ta mới gọi ngay

       Bà-La-Môn, chính danh đầy thanh cao.

 

       Người có trí, tuệ thâm sâu

       Thiện xảo đạo phi đạo mau mọi thời,

       Đích tối thượng đạt được rồi

       Kẻ ấy Ta gọi là người Bàn-Môn.

 

       Ai sự liên hệ không còn

       Tại gia, xuất thế đều không có nhà,

       Thiểu dục, não phiền lánh xa

       Chính danh Phạm-Chí mà Ta gọi vầy.

 

       Đối với chúng sinh, vị này

       Bỏ gậy, bỏ kiếm, không rày hại ai.

       Kẻ ấy Ta mới gọi ngay

       Bà-La-Môn có đủ đầy chính danh.

 

       Với kẻ thù oán, tâm lành

       Giữa người hung bạo, thực hành tịnh an,

       Giữa chấp thủ, không chấp càn.

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  411

 

       Kẻ ấy Ta gọi là hàng Bàn-Môn.

 

       Dối trá, tham, sân, tự tôn

       Ai dứt được chúng, không còn chơi vơi

       Ví như hạt cải đã rơi

       Đầu nhọn của mũi kim ; thời Như Lai

       Mới gọi Bàn-Môn vị này.

 

       Ai thật nhỏ nhẹ, lời đầy thẳng ngay

       Không hề xúc chạm một ai.

       Chính danh, Ta gọi vị này Bàn-Môn.

 

       Dài, ngắn, lớn, nhỏ, thẳng, cong,

       Thanh tịnh, bất tịnh hoặc vòng bé, to.

       Không lấy vật gì không cho

       Ta gọi Phạm-Chí là do như vầy.

 

       Ai không tham cầu dẫy đầy

       Đời này, đời tiếp dứt ngay tham cầu,

       Đoạn rời mọi hệ phược mau.

       Ta gọi Phạm-Chí thanh cao, vị này.

 

       Ai không chấp tàng sâu dày

       Trí đoạn nghi hoặc, vị đây đêm ngày

       Đạt nhập đáy bất tử ngay.

       Ta gọi Phạm-Chí vị này, chính danh.

 

       Những ai vượt khỏi buộc ràng,

       Thiện ác, bụi uế… không màng sầu bi.

       Kẻ ấy Ta gọi tức thì

       Bà-La-Môn có trường kỳ chính danh.

 

       Ai không uế, sống tịnh thanh

       Không gợn, như ánh trăng rằm sáng thay !

       Hỷ, hữu được đoạn trừ ngay.

       Bàn-Môn Ta gọi vị đây mới là.

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  412

 

       Ai người hiểm lộ vượt qua

       Luân hồi, ác lộ, mê tà sân si

       Đến bờ bên kia tức thì

       Thiền tư, không dao động chi sớm chiều,

       Đoạn trừ nghi hoặc mọi điều

       An tịnh, không chấp trước nhiều trải qua.

       Kẻ ấy Ta mới gọi là

       Chính danh Phạm-Chí tức Bà-La-Môn.

 

       Dục vọng, tham ác không còn

       Xuất gia, vui sống đời không gia đình,

       Đoạn trừ dục & hữu tự mình

       Ta gọi kẻ ấy thực tình Bàn-Môn. 

 

       Nhân ách từ bỏ, không còn

       Vượt qua cả thiên ách không khó gì

       Đoạn trừ ách nạn mọi thì

       Và mọi hệ phược thoát ly dễ dàng.

       Kẻ ấy Ta gọi rõ ràng

       Chính danh Phạm-Chí tức Bàn-Môn đây.

 

       Lạc, bất lạc từ bỏ ngay

       Thanh lương, không y trú, đầy an nhiên

       Chiến thắng mọi thế giới liền,

       Anh hùng dũng mãnh khắp miền xông pha.

       Kẻ ấy Ta mới gọi là

       Chính danh Phạm-Chí tức Bà-La-Môn.

 

       Ai hiểu biết thật hoàn toàn

       Về sự sinh diệt các hàng chúng sinh,

       Không tham trước, diệt vô minh,

       Thiện Thệ, Giác ngộ đạt thành Biến Tri

       Ta mới gọi họ tức thì

       Bà-La-Môn, chính danh thì uy nghi.

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  413

 

       Chỗ sở thủ không biết gì

       Thiên, Nhân, Càn-Thát-Bà chi mặc lòng

       Lậu hoặc được đoạn trừ xong

       Ứng Cúng, La-Hán viên thông tịnh hòa.

       Kẻ ấy Ta mới gọi là

       Chính danh Phạm-Chí tức Bà-La-Môn.

 

       Ai không chấp trước bảo tồn

       Đời sau, đời trướcvà còn đời nay

       Không chấp, không sở hữu rày

       Chính danh Phạm-Chí gọi ngay kẻ này.

 

       Ngưu Vương & bậc Tối Thượng đây

       Anh hùng, bậc Đại Sĩ đầy cao thâm

       Bậc chinh phục, bất động tâm

       Bậc Giác ngộ, tắm sạch tâm mê tà.

       Kẻ ấy Ta mới gọi là

       Chính danh Phạm-Chí, Bà-La-Môn phần.

 

       Ai biết đời trước, tiền thân

       Thấy được thiện & ác thú bằng tâm tư,

       Đạt đượcsinh diệt đoạn trừ

       Ta mới gọi với danh từ Bàn-Môn.

 

       Điều mà thế giới vẫn còn

       Gọi : ‘tên’,’gia tộc’ là thông danh, và

       Tục danh, nhiều chỗ khởi ra

       Lâu đời chấp trước, là tà kiến thôi !

       Kẻ ngu tự tuyên bố rồi

       Do sanh nên Phạm-Chí thời có ngay.

       Không phải do sinh đẻ này

       Mà gọi Phạm-Chí như vầy được đâu !

       Không phải sanh đẻ do vào

       Gọi Phi-Phạm-Chí làm sao đúng vầy !

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  414

 

       Chính do sự hành động này

       Được gọi Phạm-Chí, đủ đầy chính danh.

       Chính do hành động tạo thành

       Gọi Phi-Phạm-Chí rõ rành chỉ ra.

 

       Hành động làm ruộng, nông gia

       Công thợ, buôn bán hoặc là gia nô.

       Hành động trộm cướp, côn đồ

       Tế quan, Vua chúa đế đô cầm quyền,

       Hành động quân đội tự chuyên…

 

       Kẻ trí thấy hành động liền tự tri

       Như thật là như vậy, thì

       Thấy rõ lý duyên khởi tùy sở quan,

       Nghiệp dị thục biết rõ ràng

       Do nghiệp, luân chuyển đời hằng nổi trôi,

       Do nghiệp, con người luân hồi.

       Nghiệp đã trói buộc mọi thời chúng sanh.

 

       Như trục xe quay tự hành

       Do khổ hạnh, Phạm hạnh thanh tịnh này

       Tiết chế và chế ngự ngay

       Tác thành Phạm-Chí đủ đầy chính danh,

 

       Bàn-Môn như vậy tựu thành

       Mới thật tối thượng, tốt lành danh xưng.

       Ba Vệ Đà thành tựu chung

       Tái sanh đoạn diệt, vô cùng tịnh an.

 

       Va-Sết-Tha nên biết rằng

       Kẻ ấy được Phạm Thiên hằng ngợi ca,

       Và được Thiên Chúa Sắc-Ka

       Tức đức Đế Thích biết qua tận tường ”.

 *

*     *

Trung Bộ ( Tập 3 )   Kinh 98 :  VÀSETTHA       *    MLH –  415

 

          Được nghe đấng Pháp Vương giảng kỹ

          Hai Phạm-Chí  là Va-Sết-Tha

              Cùng chàng Pha-Rát-Va-Cha

       Liền đối trước đức Phật Đà thưa ngay :

 

          – “ Bạch Tôn Giả ! Vi diệu thay !

       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm

          Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối

          Đem đèn sáng vào tối như bưng

              Để ai có mắt mở bừng

       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu.

*

          Cũng như vậy, nhiệm mầu Chánh Pháp

          Được Thế Tôn phân tách, trình bày

              Chúng con quy ngưỡng từ nay

       Quy y đức Phật, nương ngay Pháp mầu,

          Quy y Tăng thanh cao đức cả

          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn

              Mong Thế Tôn nhận chúng con

       Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên

          Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục

          Kể từ nay đến lúc mạng chung.

             Nguyện theo chân đấng Đại Hùng

       Nương tựa Giáo Pháp muôn trùng cao thâm ./-

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt  Kinh  số 98  :  VÀSETTHA  -  VÀSETTHA Sutta  )




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2012(Xem: 4387)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3438)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4151)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 10984)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 10943)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3193)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5134)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3495)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3566)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
08/04/2012(Xem: 3345)
Kính thưa Thầy, Thầy về cõi Phật lòng thanh thoát. Con ở dương trần dạ tiếc thương. Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 năm đầu tiên vắng Thầy, đọc lại « Nữa chữ cũng là Thầy » để các thế hệ học trò cũ của Thầy mãi mãi nhớ ơn Thầy, người giáo viên nhân dân, kỹ sư tâm hồn, người ươm mầm non tương lai cho quê hương, đất nước…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]