Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18. Kinh Mật Hoàn

18/05/202019:54(Xem: 9544)
18. Kinh Mật Hoàn

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



18. Kinh MẬT HOÀN

( Madhupindika sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn an trụ

          Ka-Pì-La-Vát-Thú(1) thành này

 (Ca-Tỳ-La-Vệ(1) làđây)

       Giữa các thân quyến họ Ngài – Thích Ca             

          Tại vườn Ni-Rô-Tha-Ra-Má(2)

          Vào buổi sáng, Giác Giả Phật Đà

              Mang bát, đắp y ca-sa

       Khất thực tại Ca-Tỳ-La-Vệ thành.

          Sau khất thực, tịnh thanh thọ thực

          Rồi Đại Lâm lập tức đi qua

              Ngồi nghỉ dưới cội tên là

       Bê-Lu-Vát-Thí-Ka (3) cây này.

 

          Có vị ‘gậy cầm tay’ Sắc-Ká(4)

          Là một gã du sĩ dạn dày

              Ngao du thiên hạđóđây

       Lúc đóđi đến rừng này, Đại Lâm

          Gặp Thế Tôn, hỏi thăm theo lệ

          Xã giao, rồi đứng kế một bên

              Dựa trên cây gậy cứng bền

       Mà y thường trực cầm trên tay mình

    __________________________

(1) : Thành Kapilavatthu – Ca-Tỳ-La-Vệ , do vua Tịnh Phạn

       ( Suddhodana - phụ vương của Đức Phật ) trị vì .

 (2) : Vườn Nigrodharama .        (3) : Cây  Beluvalatthika .

 (4) : Vị du sĩ tên Sakka , vì luôn luôn cầm trên tay một cây gậy 

       nên có biệt danh là “ Gậy cầm tay”.

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 258

 

          Rồi Sắc-Ka ứng thinh hỏi khó :

    – “ Sa-môn có quan điểm thế nào ?

              Giảng thuyết những gì nhằm vào ?”

 

 – “ Hiền-giả ! Ta dạy nhằm vào sự duyên     

          Trong thế giới Chư Thiên, Ma-Rá(1)

          Cùng Phạm Thiên, tất cả cõi Trời

              Sa-môn, Bàn-môn (2), loài Người

       Không có tranh luận mọi thời, mọi nơi

          Với một ai ở đời này cả.

          Các Tưởng đã không ám ảnh gì

              Với vị Bàn-môn, một khi

       Không dục triền phược chấp trì, khiến sai 

          Không  nghi ngờ, không hay do dự

          Mọi hối quá sẽ tự diệt đi.

              Lại không có Tham ái chi

       Với hữu, phi hữu mọi thì mọi nơi.

          Này Hiền-giả ! Đó lời Ta giảng

          Là quan điểm căn bản của Ta ”.

 

              Khi nghe nói vậy, Sắc-Ka

       Lắc đầu, rồi liếm môi và khẩn trương

          Trán nổi lên ba đường nhăn đậm

          Y chầm chậm chống gậy đi ra.  

 

              Sau đó Thiện Thệ Phật Đà

       Về Ni-Rô-Thá-Ra-Ma tọa thiền

          Vào buổi chiều, sau thiền-định xả

          Ngài đứng dậy thong thả vào vườn

              Ngồi nơi dành sẵn Pháp Vương

    __________________________

(  ) : MARA  tức Ma Vương .

  (2) : Bàn-môn  hay  Phạm-chí  tức là Bà-La-Môn .

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 259

 

       Rồi Thế Tôn gọi các phương Tăng Già :

   –  “ Chư Tỷ Kheo tịnh hòa an lạc !

          Sáng nay, Ta mang bát đắp y

              Vào thành khất thực hành trì

       Ca-Tỳ-La-Vệ tức thì đến nơi.

          Sau thọ thực, Ta rời nơìấy

          Đến Đại Lâm ở lại nghỉ trưa

              Một người có tính hơn thua

       Tên là Sắc-Ká cũng vừa đến nơi

          Thích mọi thời ngao du thiên hạ

          Rồi Sắc-Ká liền đến gần Ta

              Bê-Lu-Va-Lát-Thí-Ka

       Dưới cội cây đó, nơi ta đang ngồi

          Chào xã giao, rồi thời liền hỏi

          Ta thường nói quan điểm thế nào ?

              Giảng thuyết những gì nhằm vào ?

       Nhân đó, Ta đã trước sau giảng liền : 

 

        ‘Trong thế giới Chư Thiên, Ma-Rá

          Cùng Phạm Thiên, tất cả cõi Trời

              Sa-môn, Bàn-môn, loài Người

       Không có tranh luận mọi thời, mọi nơi

          Với một ai ở đời này cả.

          Các Tưởng đã không ám ảnh gì

              Với vị Bàn-môn, một khi

       Không dục triền phược chấp trì, khiến sai 

          Không  nghi ngờ, không hay do dự

          Mọi hối quá sẽ tự diệt đi,

              Lại không có Tham ái chi

       Với hữu, phi hữu mọi thì mọi nơi.

          Này Hiền-giả ! Đó lời Ta giảng

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 260

 

          Là quan điểm căn bản của Ta’.

              Khi nghe nói vậy, Sắc-Ka

       Lắc đầu, rồi liếm môi và khẩn trương

          Trán nổi lên ba đường nhăn đậm

          Y chầm chậm chống gậy đi ra ”.  

 

              Khi nghe câu chuyện vừa qua 

       Một Tỷ Kheo đã hiền hòa thưa ra :

       “ Bạch Phật Đà ! Thế nào lời dạy

          Trong thế giới hết thảy Chư Thiên

              Ma Vương và cả Phạm Thiên

       Sa-môn, Phạm-chí , chẳng riêng loài Người

          Mà Thế Tôn ở đời không muốn

          Với một ai tranh luận làm gì.

              Các Tưởng không ám ảnh chi

       Đến Thế Tôn cả, bởi vì Ngài đây

          Dục triền phược không rày xâm nhập

          Không do dự, xác lập, không nghi

              Mọi hối quáđoạn diệt đi

       Không tham ái với hữu, phi hữu nào ? ”.

 

       “ Này Tỷ Kheo ! Hiểu vào tự sự

          Do bất cứ là nhân duyên gì,       

              Và hý luận vọng tưởng chi

Ám ảnh đến một người thì ra sao ?

          Nếu không cóđiều nào khả dĩ

Đáng tùy hỷ, chấp thủ tương liên

              Vậy là sựđoạn tận liền 

       Tham, sân, nghi, kiến-tùy-miên của mình

          Mạn, hữu tham, vô minh đoạn tận

          Sựđoạn tận chấp trượng, đấu tranh

              Chấp kiến, tránh tranh, luận tranh

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 261

 

       Ly gián, vọng ngữ, kháng tranh diệt rày.

          Chính ởđây, những bất thiện pháp &

          Các ác pháp đều được diệt trừ

              Vĩnh viễn không còn tàn dư ”.

 

       Sau khi giảng vậy, Đại Từ đứng lên

          Vào hương-thất tịnh yên để nghỉ.

          Khi bậc Vô Thượng Sĩđi rồi

              Các vị Tỷ Kheo còn ngồi

       Bàn luận : “ Thiện Thệ tùy thời giảng ra

          Nhưng chúng ta vẫn còn thắc mắc

          Về lời dạy tóm tắt của Ngài.

              Nay ai có thể trình bày

       Giải thích rộng rãi ý này cho ta ? ”.

          Rồi các vị nhớ ra Tôn Giả

          Ngài Ma-Ha Kách-Chá-Da-Na

  (Đại Ca-Chiên-Diên cũng là)

       Là vị được đức Phật Đà tán dương

Chư phạm-hạnh cũng thường kính trọng

          Ngài có thể giảng rộng nghĩa mầu

              Vậy chúng ta hãy cùng nhau

       Đến gặp Tôn-giả, thỉnh cầu giảng ra ”.

 

          Những Tỷ Kheo ấy qua đến chỗ

          Của Tôn-giả Kách-Chá-Da-Na.   

              Thi lễ, chúc tụng hỏi qua

       Một bên ngồi xuống, thưa ra với ngài :

    – “ Thưa Hiền-giả ! Chiều nay Thiện Thệ

    _______________________________

(1) : Tôn-giả  Mahà Kaccayana  – Đại Ca-Chiên-Diên là

    một trong Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật , được tôn xưng

    là bậc “Luận Nghị Đệ Nhất”.

 

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 262

 

          Trong thời pháp, đã kể chuyện là

              Có du-sĩ tên Sắc-Ka

       Đến Đại Lâm, gặp Phật Đà tại đây

          Du-sĩ này hỏi Ngài chi tiết

          Quan điểm Ngài, giảng thuyết những gì ?

              Thế Tôn trả lời tức thì

       Nhưng du-sĩ không cách gì hiểu sâu

          Y lắc đầu, liếm môi – trán hắn

          Ba đường nhăn nổi hẳn tức thì

              Rồi y chống gậy ra đi.

       Khi nghe Đấng Chánh Biến Tri kể rồi

          Thì chúng tôi xin Ngài giảng rõ

          Những điều đó diệu nghĩa thế nào ?  

              Để chúng tôi hiểu thâm sâu

       Sau đó Ngài giảng đuôi đầu như sau :

 

 ‘Các Tỷ Kheo ! Hiểu vào tự sự

          Do bất cứ là nhân duyên gì,       

              Và hý luận vọng tưởng chi

Ám ảnh đến một người thì ra sao ?

          Nếu không cóđiều nào khả dĩ

Đáng tùy hỷ, chấp thủ tương liên

              Vậy là sựđoạn tận liền 

       Tham, sân, nghi, kiến-tùy-miên của mình

          Mạn, hữu tham, vô minh đoạn tận

          Sựđoạn tận chấp trượng, đấu tranh

              Chấp kiến, tránh tranh, luận tranh

       Ly gián, vọng ngữ, kháng tranh diệt rày.

          Chính ởđây, những bất thiện pháp &

          Các ác pháp đều được diệt trừ

              Vĩnh viễn không còn tàn dư’.

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 263

 

       Sau khi giảng vậy, Đại Từ đứng lên

          Vào hương-thất tịnh yên để nghỉ.

 

          Khi bậc Vô Thượng Sĩđi rồi

              Tất cả chúng tôi còn ngồi

       Bàn luận : ‘Thiện Thệ tùy thời giảng ra

          Nhưng chúng ta vẫn còn thắc mắc

          Về lời dạy tóm tắt của Ngài

              Nay ai có thể trình bày

       Giải thích rộng rãi ý này cho ta ?’

          Rồi chúng tôi nhớ ra Tôn Giả

          Nên vội vả đến để nhờ ngài

              Giải thích sâu ý nghĩa này ”.

 

 – “ Này chư Hiền-giả ! Cũng tày người kia

Ưa thích lõi cây kia quý hiếm

Đi khắp nơi tìm kiếm lõi cây

              Gặp một cây lớn, thẳng ngay

       Bên trong ắt có lõi cây mình cần

          Bỏ qua rễ, qua thân cây ấy

          Y nghĩ phải tìm ở lá, cành.

              Các vị hành động vội, nhanh

       Đứng trước Thiện Thệ trọn lành, viên thông

          Bỏ qua, không hỏi ngay Thiện Thệ

          Nghĩ rằng để hỏi tôi việc này.

Chư Hiền ! Thế Tôn trí tài

       Những gì cần biết thì Ngài biết ngay

          Cần phải thấy thì Ngài thấy rõ

          Ngài trở thành vị có mắt xa

              Thành vị có trí hằng hà

       Trở thành Chánh Pháp, hoặc là Phạm Thiên,

          Vị thuyết-giả, vị chuyên diễn giải

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 264

 

          Vịđem lại chân chánh mục tiêu

              Trao cho bất tử tiêu diêu

       Là vị Pháp Chủ, diệu siêu Phật Đà.

          Phải tùy thời hỏi qua Thiện Thệ

          Vềý nghĩa này, để hiểu mau

              Những gì Thế Tôn giảng sâu

       Y cứ như vậy, cùng nhau thọ trì ”.

 

    – “ Thưa Hiền-giả ! Những gì Phật biết   

          Là nhất thiết vi diệu sâu xa

              Chúng tôi nhất định hỏi qua

Ý nghĩa đó khi xảy ra hợp thời,

          Sẽ thọ trì những lời Ngài dạy.

          Nhưng chúng tôi nhận thấy điều là

              Tôn-giả Kách-Chá-Da-Na

       Được Phật tán thán, Tăng-Già kính thương   

          Có thể thay Pháp Vương giảng giải .

          Những lời dạy của Đức Phật Đà

              Ngài nói vắn tắt, lược qua

       Chúng tôi chưa hiểu sâu xa lời Ngài

          Chúng tôi nay kính mong Tôn-giả

          Hãy giảng rộng giải tỏa điều nghi

              Thiết nghĩ việc không có gì,

       Không hề bất kính với vì Thế Tôn ”.

 

    – “ Vậy Chư Hiền Sa-Môn ! Nghe kỹ,  

          Khéo tác ý , tôi sẽ trình bày ”.     

 

        – “ Thưa vâng ! Xin ngài nói ngay ”.  

 

 – “ Chư Hiền-giả ! Phải nghĩ rày đắn đo 

          Do nhân mắt và do sắc-pháp

 

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 265

 

Nhãn-thức sẽ thuận hạp khởi lên

              Sự gặp gỡ ba pháp nền

       Chính là Xúc, do xúc liền có ngay

          Sựcảm thọ, do đây có tưởng

 

          Hễ cótưởng thì cósuy tầm

Hý luận do có suy tầm

       Hý luận, vọng tưởng âm thầm mọi nơi.

          Chúng ám ảnh một người này, khác

          Đối với các sắc-pháp, xảy ra

              Do con mắt nhận thức qua

       Hiện tại, quá khứ cùng là tương lai.

 

          Chư Hiền này ! Do nhân taiđó

          Các tiếng có, nhĩ-thức khởi lên,

 

             Do mũi, các hương, tạo nên

       Khiến cho tỷ-thức khởi lên tức thì,

          Do nhân lưỡi và vì các vị

          Khiến thiệt-thức khả dĩ khởi lên.

              Do thânxúc tạo nên

       Khiến cho thân-thức khởi lên đủ trò.

          Do nhân ý và do các pháp

Ý-thức liền thuận hạp khởi lên.

 

              Tương tự với lý giải trên

       Khi nào có mắt, có liền sắc đây

          Và khi nào có ngay nhãn-thức

          Sự thi thiết của xúc hiển bày,

              Sự kiện này xảy ra ngay :

       Khi có sự thi thiết rày xúcđây

          Thì thi thiết thọnày hiển lộ.

 

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 266

 

          Thi thiết thọ, thi thiết tưởng bày.

              Rồi xảy ra sự kiện này :

       Thi thiết của tưởng lộ ngay suy tầm

          Thi thiết của suy tầm được biết

          Khiến thi thiết ám ảnh hiển bày

             Các hý luận, vọng tưởng ngay.

       Cũng tương tự, sự kiện này đến nhanh :

          Khi có tai, âm thanh, nhĩ-thức …

          Khi có mũi, tỷ-thức, mùi hương …

              Có lưỡi, thiệt-thức, vị thường …

       Có thân, thân-thức, tinh tường xúc thân …

          Khi cóý, pháp trần, ý-thức …

          Có lục căn, lục thức, lục trần 

              Thân, khẩu, ý-thức ba phần

       Ba pháp gặp gỡ tạo dần xúc ngay .

          Do có xúc, có ngay cảm thọ

          Có cảm thọ thời cótưởng ngầm

              Có tưởng thì cósuy tầm

Hý luận do có suy tầm mà ra.

          Sự kiện này xảy ra được biết :

          Khi có sự thi thiết suy tầm

              Thi thiết của ám ảnh, nhằm

       Hý luận, vọng tưởng từ tâm hiển bày.

          Này Chư Hiền ! Ởđây như thế

          Sự kiện này không thể xảy ra :

              Khi nào không có mắt ta

       Các sắc, nhãn-thức cũng là đều không

          Thi thiết trong xúc này hiển lộ.

       – Khi sự cố không thể có này :

              Không có thi thiết Xúc đây       

       Mà sự thi thiết Thọ bày hiển ra.

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 267

 

      –  Không có qua thi thiết của Thọ

          Thì không có hiển lộ Tưởng ra.

              Cũng như vậy, không xảy ra :

   –  Không thi thiết Tưởng trải qua âm thầm

          Mà thi thiết suy tầm hiển lộ.

      –  Nếu không có thi thiết suy tầm

              Thì sự thi thiết không nhằm     

       Vào sựám ảnh một phần xảy ra

          Hiển lộ hý luận và vọng tưởng.

 

      *  Cũng như vậy, định hướng rõ ngay

              Tai, mũi, lưỡi, thân, ý này   

       Tương tự như vậy, trình bày cho thông :

          Ví dụ như : Khi không cóý

          Không các pháp, không ý-thức ngay

              Sự thi thiết của xúc này

       Không được hiển lộ như vầy, ởđây

          Không thi thiết xúc này hiển lộ

          Thì không có thi thiết Thọ bày

              Không có thi thiết Thọ này

       Không có thi thiết Tưởng đây hiển bày.

          Không có rày thi thiết của Tưởng

          Không hiện tượng hiển lộ suy tầm

              Không có thi thiết suy tầm

       Thi thiết ám ảnh không nhằm lộ ra

          Một số hý luận và vọng tưởng’.

 

          Đấng Vô Thượng vắn tắt trình bày 

              Rồi vào hương thất của Ngài.

       Một số Hiền-giả tại đây chưa tường

          Lời Pháp Vương thâm sâu khó hiểu,

          Nhưng tôi hiểu nghĩa lý như vầy

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 268

 

              Nếu cần, hãy hỏi lại Ngài

       Thế Tôn giải đáp, theo đây thọ trì ”.

 

          Các Tỷ Kheo tức thì hoan hỷ

          Theo tôn ý ngài Kách-Cha-Na

              Đứng dậy, về gặp Phật Đà

       Sau khi đảnh lễ, an hòa ngồi bên

          Hướng về Phật, nói lên ý kiến :

    – “ Bạch Thế Tôn ! Câu chuyện Sắc-Ka

              Ngài đã vắn tắt giảng ra    

       Chúng con chưa hiểu nên qua thiền tòa

          Gặp Tôn-giả Kách-Cha-Da-Ná

          Xin Tôn-giả giảng rộng thêm ra

              Và Tôn-giảđã giảng qua

       Với những phương pháp trải qua thế này

          Những văn cú như vầy đơn cử,

          Những văn-tự súc tích như vầy,

              Bạch Thế Tôn ! Thật lành thay !

       Xin Ngài cho biết việc này ra sao ? ”.

 

    – “ Chư Tỷ Kheo ! Nói vào thông tuệ

          Thì phải kểĐại Ca-Chiên-Diên

               Là bậc Tôn-giả trí hiền

       Là người đại tuệ, luận chuyên đại tài.

          Nếu có hỏi Như Lai nghĩa lý

          Ta cũng chỉ trả lời thế thôi.

              Như vậy chính nghĩa từng lời

       Hãy nên căn cứ làm nơi thọ trì ”.

 

          Nghe nói vậy, tức thì Tôn-giả

          A-Nan-Đa , vội vả thưa qua :

       – “ Bạch Thế Tôn ! Giống như là

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 269

 

       Một người đói lả , trải qua mệt nhoài .

          Tìm trong ngoài, rất may gặp được

          Một bánh mật như dược thực này

              Mỗi miếng vịấy nếm đây

       Vị ngọt, thơm ấy thấm đầy chân răng.

          Bạch Thế Tôn ! Cũng hằng nhưđó

          Tỷ Kheo có tri thức biệt tài

              Mỗi phần suy tư pháp này

       Hiểu nghĩa với trí tuệ, đầy hân hoan

          Giống nhưđang nếm mùi hỷ-thực

          Được thưởng thức thoải mái tâm hồn.

              Kính bạch Đại Giác Thế Tôn !

       Chúng con phải gọi pháp môn tên gì ? ”

 

     – “ Này A-Nan (1)! Phụng trì chân thật

          Gọi pháp môn ‘Bánh Mật” (Mật hoàn).

 

              Nghe Phật thuyết giảng, hân hoan 

       A-Nan tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*   *   *

 

(  Chấm dứt  Kinh số 18  :  MẬT HOÀN

MADHUPINDIKA Sutta  )        

    _______________________________

(1) : Tôn-giả  ANANDA  hay  A-Nan  là con  Hộc-Phạn Vương      

   ( Sukodana –  em Vua Tịnh Phạn - Suddhodana ), tức là em chú

   bác với Đức Phật . Xuất gia cùng với 6 vị vương-tử giòng Thích

   Ca khi đức Phật  về thăm lại Ca-Tỳ-La-Vệ  ( Kapilavatthu ) lần 

đầu tiên sau khi thành đạo .Tôn-giả là Thị giả hầu cận trung tín  

  của Đức Phật suốt 30 năm trung-giác-thời và hậu-giác-thời của 

 Phật .   ( 15 năm tiền-giác-thời, đức Phật chưa có vị  thị giả nào nhất định và chính thức ). Tôn-giả cũng là vị “Đa Văn Đệ Nhất” trong Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật . 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2012(Xem: 5339)
法住天寒極地空花如雪鎖禪扃生死遙程幾許夢回故里 雲行色没浮漚暮影凝烟参晚课唄吟長夜有時聲斷洪洲 Âm: Pháp Trụ thiên hàn cực địa, không hoa như tuyết tỏa thiền quynh, sinh tử diêu trình, kỷ hứa mộng hồi cố lý. Vân hành sắc một phù âu, mộ ảnh ngưng yên tham vãn khóa, bái ngâm trường dạ, hữu thời thanh đoạn hồng châu Ôn dịch nghĩa: Cực thiên Bắc, tuyết dồn lữ thứ, sắc không muôn dặm hoa vàng, heo hút đường về, non nước bốn nghìn năm soi nguồn đạo PHÁP Tận hồng châu, chuông lắng đồi thông, bào ảnh mấy trùng sương đẫm, mênh mông sóng cuộn, dòng đời quanh chín khúc rọi bóng phù VÂN
01/10/2012(Xem: 4456)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3508)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4221)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 11420)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 11326)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3277)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5358)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3564)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3655)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]