Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

52. Kinh Bát Thành

19/05/202010:24(Xem: 9844)
52. Kinh Bát Thành

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



52. Kinh BÁT THÀNH
( Atthakanàgara sutta)
 
Như vậy, tôi nghe :
 
Một thời, A-Nan-Đa (1) Tôn-giả
          Tại Tỳ-Xá-Ly (2)  Thành trú qua
           ( Tức Vê-Sa-Li cũng là )
       Bê-Lu-Va-Gá-Ma-Ka (3) thôn làng.
 
          Lúc bấy giờ có hàng Gia Chủ
          Đang thường trú tại Át-Tha-Ka (4)
              Có tên là Đa-Sa-Ma, (4)
       Đến Pa-Ta-Lí-Pút-Ta đô thành
       ( Hoa Thị Thành cũng là nơi đó )
Vì ông có công việc cần qua.
              Rồi Gia-chủ Đa-Sa-Ma
       Đến Kút-Ku-Tá-Ra-Mà (5) – Kê Viên.
          Gặp vị Tăng, ông liền đảnh lễ
    ________________________________
 
(1) : ANANDA  hay A-Nan  là con Hộc-Phạn Vương ( Sukodana – 
       em Vua Tịnh Phạn - Suddhodana ), tức là em chú bác với Đức
      Phật . Xuất gia cùng với 6 vị vương-tử giòng Thích Ca khi đức
      Phật về thăm lại Ca-Tỳ-La-Vệ (Kapilavatthu ) lần đầu tiên sau 
      khi thành đạo . Tôn-giả là vị Thị giả hầu cận trung tín của Đức
     Phật suốt 30 năm trung-giác-thời và hậu-giác-thời của Phật .
     ( 15 năm tiền-giác-thời, đức Phật chưa có vị  thị giả nào nhất
    định và chính thức ) .
(2) : Vesali ( Tỳ-Xá-Ly ) là thủ phủ của vương quốc Licchavi , một
   trung tâm chính trị, thương mại và văn hóa quan trọng thời Phật.
   Nơi đây còn là cái nôi của nền văn hóa triết thuyết Phật-giáo.Tại
   đây, đức Phật đã tuyên bố 3 tháng nữa Ngài nhập Niết-Bàn ;  và
   cũng tại đây, Đại Hội Kết Tập Tam Tạng lần thứ 2 được tổ chức
   sau khi Phật nhập diệt hơn 100 năm . 
(3) : Làng Beluvagàmaka .    (4) : Atthaka – Bát Thành , quê quán
        của Dasama .                 (5) :  Kukkutarama – Kê Viên .
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   206
 
          Đoạn ngồi kế một bên vị này
              Ông Đa-Sa-Má thưa ngay :
– “ Kính bạch Tôn-giả ! Xin ngài thứ cho !
          Những điều do con đây quấy quả
          Không biết là Tôn-giả A-Nan
              Ngài đang nơi nào trú an ?
       Chúng con muốn gặp, thỉnh an với ngài ! ”.
 
    – “ Này Gia Chủ ! Ngài nay an trú
          Vê-Sa-Li, nơi ngụ tên là
              Bê-Lu-Vá-Ga-Ma-Ka,
       Gia-chủ muốn gặp, hãy qua nơi này ”.
 
          Đa-Sa-Ma, vị đây quê quán 
          Át-Tha-Ka – hoàn mãn việc nhà
              Ở Pa-Ta-Li-Pút-Ta  (1)
       Liền trực chỉ đến Vê-Sa-Li thành
          Để được gặp tịnh thanh Tôn-giả
          A-Nan-Đa. Khi đã gặp rồi
              Đảnh lễ, một bên ông ngồi
       Rồi Đa-Sa-Má mở lời thưa qua :
 
    – “ Kính bạch A-Nan-Đa Tôn-giả !
          Pháp độc nhất nào đã do Ngài
              Thế Tôn, Kiến Giả, Như Lai,
       Chánh Đẳng Chánh Giác hoằng khai Pháp mầu,
          Bậc thâm sâu Đại A-La-Hán,
          Đã thuyết giảng, tuyên bố như sau :
             ‘Nếu có vị Tỷ Kheo nào
    ______________________________
 
(1) : Pàtaliputta – Ba-la-lị-phất , tức  Hoa Thị Thành , nơi diễn
      ra Đại Hội Kết Tập Tam Tạng lần thứ 3 dưới sự chủ tọa của
     ngài Mục-Kiền-Liên Đế Tu  ( Moggaliputta Tissa ) do A-Dục  
     Đại  Đế  ngoại hộ ( khoảng thế kỷ thứ 3  trước Tây lịch ). 
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   207
 
       Sống không phóng dật, thanh cao, tinh cần,
          Luôn nhiệt tâm hành trì pháp ấy
          Thì tâm của vị ấy tịnh thanh.
              Nếu giải thoát chưa đạt thành
       Sẽ được giải thoát, an lành sớm trưa.
    Các lậu-hoặc nếu chưa trừ diệt
   Sẽ trừ diệt lậu-hoặc dễ dàng.
              Pháp khỏi ách phược, vui an
       Chưa được chứng đạt, sẵn sàng chứng ngay’.
          Pháp độc nhất ở đây được kể
          Là pháp gì Thiện Thệ thuyết ra ? ”.
 
        – “ Này Gia-chủ Đa-Sa-Ma !
       Có pháp độc nhất Phật Đà, Thế Tôn,
          Đại Sa-Môn, Tri Giả, Kiến Giả,
          Chánh Đẳng Giác – Ngài đã thuyết ra.
              Này Gia-chủ Đa-Sa-Ma !
       Tỷ Kheo ly dục trải qua mọi thì,
          Bất thiện pháp cũng ly đầy đủ,
          Chứng và trú vào Đệ Nhất Thiền
              Trạng thái hỷ lạc, an nhiên,
       Có tầm & tứ, ly dục liền phát sanh.
          Rất an lành, vị này nghĩ ngợi :
        ‘ Được biết tới : Sơ Thiền này là
              Pháp hữu vi, thường trải qua,
       Do suy tư, đã tạo ra tức thì.
          Phàm nó là hữu vi pháp ấy
          Do suy tư như vậy tác thành
              Thời sự vật ấy đành rành
       Là vô thường, chịu sẵn dành diệt ngay’.
 
          Vị ấy do ở đây vững trú
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   208
 
  Rồi các thứ lậu-hoặc đoạn trừ.
              Còn các lậu-hoặc, nếu như
       Do tham luyến, chưa đoạn trừ được ngay,
          Nhưng vị ấy pháp này hoan hỷ
          Sẽ khả dĩ đoạn trừ tức thì
              Năm hạ-phần-kiết-sử đi,
       Hóa sanh, nhập Niết Bàn khi mãn phần,
   Và không cần trở lui cõi thế.
          Này Gia-chủ ! Được kể pháp này
              Là pháp độc nhất, không hai
       Do Thế Tôn, bậc Như Lai, Phật Đà,
          Tri & Kiến Giả, Đại A-La-Hán,
          Chánh Đẳng Giác, viên mãn Trí Bi
              Đã tuyên bố để hành trì,
       Nên những Phích-Khú nào vì nhiệt tâm
          Luôn tinh cần và không phóng dật,
          Các lậu-hoặc chưa được đoạn trừ
         Thì sẽ đi đến đoạn trừ.
       Chưa giải thoát sẽ an như thoát trần.
          Pháp vô thượng được phần an ổn
          Khỏi ách phược, không tổn hại gì
  Chưa chứng đạt, chứng tức thì.
 
       Lại nữa Gia-chủ ! Vị Tỳ-Khưu đây
          Diệt tầm & tứ, chứng ngay và trú
          Đệ Nhị Thiền đầy đủ, thâm trầm,
              Trạng thái nội tĩnh nhất tâm
       Hỷ lạc do định, không tầm & tứ chi. 
          Vị ấy liền nghĩ suy, biết rõ :
        ‘ Nhị Thiền đó là pháp hữu vi,
              Tác thành do sự nghĩ suy,
 
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   209
 
       Sự vật ấy thuộc phạm vi vô thường,
          Cho nên thường phải chịu đoạn diệt ’.
 
          Này Gia-chủ ! Với nhiệt tâm cao 
              Ly hỷ trú xả hướng vào,
       Chánh niệm tỉnh giác, thân mau cảm liền,
          Sự lạc thọ Thánh hiền gọi đủ
          Là ‘xả niệm lạc trú’, chứng ngay
        Và an trú Tam Thiền này.
 
       Lại nữa, vị ấy diệt rày hỷ ưu,
          Đã cảm thọ, xả lạc xả khổ
          Chứng, trú chỗ Đệ Tứ Thiền ngay,
              Không khổ, không lạc ở đây,
       Xả niệm thanh tịnh. Vị này suy tư :
       ‘ Được biết : Thiền Thứ Tư cũng thế,
          Cả Tam Thiền và Đệ Nhị Thiền
              Cũng là pháp hữu-vi chuyên,
Do suy tư, tác thành liền có ra.
          Sự vật là hữu-vi pháp ấy,
          Do suy tư như vậy tác thành,
              Thời sự vật ấy đành rành
       Là vô thường, chịu sẵn dành diệt ngay.
 
          Vị ấy do ở đây vững trú
          Rồi các thứ lậu-hoặc đoạn trừ.
              Còn các lậu-hoặc, nếu như
       Do tham luyến, chưa đoạn trừ được ngay,
          Nhưng vị ấy pháp này hoan hỷ
          Sẽ khả dĩ đoạn trừ tức thì
              Năm hạ-phần-kiết-sử đi,
       Hóa sanh, nhập Niết Bàn khi mãn phần,
   Và không cần trở lui cõi thế.
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   210
 
          Này Gia-chủ ! Được kể pháp này
              Là pháp độc nhất, không hai
       Do Thế Tôn, bậc Như Lai, Phật Đà,
          Tri & Kiến Giả, Đại A-La-Hán,
          Chánh Đẳng Giác, viên mãn Trí Bi
              Đã tuyên bố để hành trì,
       Nên những Phích-Khú nào vì nhiệt tâm
          Luôn tinh cần và không phóng dật,
          Các lậu-hoặc chưa được đoạn trừ
     Thì sẽ đi đến đoạn trừ.
       Chưa giải thoát sẽ an như thoát trần.
          Pháp vô thượng được phần an ổn
          Khỏi ách phược, không tổn hại gì
  Chưa chứng đạt, chứng tức thì.
 
       Lại nữa, Gia-chủ ! Vị Tỷ Khưu đây
          Vâng lời dạy bậc Thầy hy hữu
          Biến mãn tâm câu hữu với Từ,
              Với Bi, Hỷ, Xả – an như,
       Hết thảy phương xứ, chẳng trừ nơi nao,
          Vô biên giới khắp vào cùng tận,
          Không sân, hận, quảng đại, vô biên.
              Vị ấy suy tư, biết liền
       Từ, Bi, Hỷ, Xả tâm nguyên đều là
     Pháp hữu vi, có ra do nghĩ.
          Sự vật chỉ là pháp hữu vi  
              Thời sự vật ấy được truy
       Là vô thường, đoạn diệt đi chẳng chầy.
 
          Vị ấy do ở đây vững trú
  Rồi các thứ lậu-hoặc đoạn trừ.
              Còn các lậu-hoặc, nếu như
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   211
 
       Do tham luyến, chưa đoạn trừ được ngay,
          Nhưng vị ấy pháp này hoan hỷ
          Sẽ khả dĩ đoạn trừ tức thì
              Năm hạ-phần-kiết-sử đi,
       Hóa sanh, nhập Niết Bàn khi mãn phần,
   Và không cần trở lui cõi thế.
          Này Gia-chủ ! Được kể pháp này
              Là pháp độc nhất, không hai
       Do Thế Tôn, bậc Như Lai, Phật Đà,
          Tri & Kiến Giả, Đại A-La-Hán,
          Chánh Đẳng Giác, viên mãn Trí Bi
              Đã tuyên bố để hành trì,
       Nên những Phích-Khú nào vì nhiệt tâm
          Luôn tinh cần và không phóng dật,
          Các lậu-hoặc chưa được đoạn trừ
         Thì sẽ đi đến đoạn trừ.
       Chưa giải thoát sẽ an như thoát trần.
          Pháp vô thượng được phần an ổn
          Khỏi ách phược, không tổn hại gì
  Chưa chứng đạt, chứng tức thì.
       Lại nữa, Gia-chủ ! Vị Tỳ Khưu trên
          Đã vượt lên với mọi Sắc-tưởng,
          Chướng ngại-tưởng hết thảy diệt mau,
       Không tác ý dị tưởng nào.
       Tỷ Kheo ấy lại mau mau nghĩ liền :
       “ Hư không là vô biên’ thực thụ ”.
  Chứng và trú Xứ Không Vô Biên.
              Sau đó vị ấy vượt lên   
       Mọi Không Vô Biên Xứ, liền nghĩ ra :
       “ Chính Thức là vô biên’ đích thực ”
   Chứng và trú Xứ Thức Vô Biên.
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   212
 
              Vị ấy tiếp tục vượt lên
       Mọi Thức Vô Biên Xứ, liền nghĩ suy :
   “ Thật không có vật gì  ” – chứng, trú
       Vào Vô Sở Hữu Xứ cõi này.
              Vị ấy suy tư, biết ngay :
    “ Tất cả các Xứ trên đây còn phiền
          Không Vô Biên, Thức Vô Biên Xứ,
          Cùng Vô Sở Hữu Xứ Định ni
              Cũng đều là pháp hữu vi
       Chúng do từ sự nghĩ suy tác thành
          Phàm sự vật tác thành do nghĩ
          Là hữu vi, đích thị vô thường,
              Chịu sự đoạn diệt tang thương
     Không phải là sự cát tường, chẳng hay !
 
          Vị ấy do ở đây vững trú
  Rồi các thứ lậu-hoặc đoạn trừ.
              Còn các lậu-hoặc, nếu như
       Do tham luyến, chưa đoạn trừ được ngay,
          Nhưng vị ấy pháp này hoan hỷ
          Sẽ khả dĩ đoạn trừ tức thì
              Năm hạ-phần-kiết-sử đi,
       Hóa sanh, nhập Niết Bàn khi mãn phần,
   Và không cần trở lui cõi thế.
 
          Này Gia-chủ ! Được kể pháp này
              Là pháp độc nhất, không hai
       Do Thế Tôn, bậc Như Lai, Phật Đà,
          Tri & Kiến Giả, Đại A-La-Hán,
          Chánh Đẳng Giác, viên mãn Trí Bi
              Đã tuyên bố để hành trì,
       Nên những Phích-Khú nào vì nhiệt tâm
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   213
 
          Luôn tinh cần và không phóng dật,
          Các lậu-hoặc chưa được đoạn trừ
         Thì sẽ đi đến đoạn trừ.
       Chưa giải thoát sẽ an như thoát trần.
          Pháp vô thượng được phần an ổn
          Khỏi ách phược, không tổn hại gì
  Chưa chứng đạt, chứng tức thì.
       Gia Chủ ! Sự việc chung qui như vầy ! ”.
 
          Nghe thuyết giảng từ ngài Tôn-giả,
          Vị Gia-chủ tên Đá-Sa-Ma
              Cư dân thành Át-Thá-Ka
       Bạch Tôn-giả A-Nan-Đa rõ ràng :
 
     – “ Bạch Tôn-giả A-Nan đáng kính !
          Như một người toan tính tìm ra
              Kho tàng cất dấu lâu xa
       Mất nhiều công sức, tìm ra kho tàng.
          Cũng vậy, bạch A-Nan Tôn-giả !
          Con vất vả tìm một pháp-môn
        Xứng là bất tử pháp môn.
       Một lúc, mười một pháp môn tuyệt vời
          Được tìm thấy do lời ngài giảng,
          Đều xứng đáng ‘bất tử pháp môn’.
 
              Như ngôi nhà được bảo tồn
       Có mười một cửa được tôn tạo vầy.
          Khi nhà này bất thần bị cháy
          Chỉ cần lấy một cửa chạy qua
        Có thể an toàn thoát ra.
       Cũng vậy, cần có chỉ là một thôi
          Cửa bất tử trong mười một cửa
   Con có thể nương tựa an toàn.
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 52 :   BÁT THÀNH         * MLH  –   214
 
              Kính bạch Tôn-giả A-Nan !
       Đệ tử ngoại đạo các hàng thường xuyên   
          Tìm của tiền cúng dường Thầy họ,
          Con cũng có ý muốn cúng dường
              Cho Tôn-giả, bậc thanh lương,
       Cùng với Tăng Chúng địa phương tịnh hòa ”. 
          Vị Gia Chủ tên Đa-Sa-Má
          Cư dân Át-Tha-Ká – Bát Thành
              Thỉnh mời Tăng-Già tịnh thanh
   Pa-Ta-Lí-Pút-Ta thành nơi ni,
          Hoặc tại Vê-Sa-Li trú ngụ
 Vào ngày mai Gia-chủ Trai Tăng.
              Tự tay chủ nhân mời ăn
       Các món thượng vị quý trân cứng, mềm.
          Sau ngọ thực, ông đem dâng đủ
    Mỗi Phích-Khú một bộ y vàng,
              Cúng dường Tôn-giả A-Nan
       Tam y (1), pháp phục của hàng Tỷ Kheo.
          Rồi dâng chư Tỷ Kheo & Tôn-giả
          Một Tăng Xá giá trị vô song
              Tiền vàng, xứng năm trăm đồng
       Trong đó có năm trăm phòng tiện nghi ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
 
(  Chấm dứt  Kinh số 52  :  BÁT THÀNH   –
ATTHAKANÀGARA   Sutta  )
    _______________________________
 
(1) : Một vị Tỷ Kheo (Tỳ-Khưu -Bhikkhu ) đã thọ Cụ-Túc-Giới (Đại
Giới) luôn luôn mang theo mình Bình Bát và Tam Y : Y An-Đà-Hội
(Antarvàsa –Y mặc như quần ); Y Uất-Đà-La-Tăng (Uttara sangha –Y vai trái ); Y Tăng-Già-Lê – Sanghàti  ( Y may từ 2 đến 7 lớp- có
thể dùng để đắp .Y này chỉ hàng Tỷ Kheo mới có, khi hành Tăng Sự
thì bắt buộc phải đắp lên vai trái, bên ngoài Y Uất-đà-la-tăng ). .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2012(Xem: 5339)
法住天寒極地空花如雪鎖禪扃生死遙程幾許夢回故里 雲行色没浮漚暮影凝烟参晚课唄吟長夜有時聲斷洪洲 Âm: Pháp Trụ thiên hàn cực địa, không hoa như tuyết tỏa thiền quynh, sinh tử diêu trình, kỷ hứa mộng hồi cố lý. Vân hành sắc một phù âu, mộ ảnh ngưng yên tham vãn khóa, bái ngâm trường dạ, hữu thời thanh đoạn hồng châu Ôn dịch nghĩa: Cực thiên Bắc, tuyết dồn lữ thứ, sắc không muôn dặm hoa vàng, heo hút đường về, non nước bốn nghìn năm soi nguồn đạo PHÁP Tận hồng châu, chuông lắng đồi thông, bào ảnh mấy trùng sương đẫm, mênh mông sóng cuộn, dòng đời quanh chín khúc rọi bóng phù VÂN
01/10/2012(Xem: 4457)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3508)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4221)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 11420)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 11330)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3278)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5358)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3564)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3657)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]