- Từ Phẩm 01 Đến Phẩm 10
- Từ Phẩm 11 Đến Phẩm 16
- Từ Phẩm 17 Đến Phẩm 19
- Từ Phẩm 20 Đến Phẩm 22
- Từ Phẩm 23 Đến Phẩm 24
- Từ Phẩm 25 Đến Phẩm 26
- Từ Phẩm 27 Đến Phẩm 29
- Từ Phẩm 30 Đến Phẩm 31
- Từ Phẩm 32 Đến Phẩm 33
- Phẩm 34: Phẩm Đẳng kiến
- Từ Phẩm 35 Đến Phẩm 37
- Từ Phẩm 38 Đến Phẩm 39
- Từ Phẩm 40 Đến Phẩm 41
- Từ Phẩm 42 Đến Phẩm 43
- Từ Phẩm 44 Đến Phẩm 45
- Từ Phẩm 46 Đến Phẩm 48
- Từ Phẩm 49 Đến Phẩm 50
- Từ Phẩm 51 Đến Phẩm 52
Việtdịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượngThích Thiện Siêu
ViệnNghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997
TẬP 2
1.Tôi nghe như vầy:
Mộtthời Tôn giả Xá-lợi-phất ở thành Xá-vệ, rừng Kỳ-đà,vườn Cấp Cô Ðộc, cùng với chúng đại Tỳ-kheo năm trămngười.
Bấygiờ Tỳ-kheo đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, cùng hỏi thămnhau rồi ngồi một bên. Lúc ấy, nhiều Tỳ-kheo bạch Tôngiả rằng:
- Tỳ-kheogiới thành tựu nên suy nghĩ những pháp gì?
Tôngiả Xá-lợi-phất đáp:
- Tỳ-kheogiới thành tựu nên tư duy năm thạnh ấm, vô thường là khổnão, là nhiều đau đớn, lo sợ; cũng nên tư duy khổ, không,vô ngã. Thế nào là năm? Nghĩa là sắc ấm, thọ ấm, tưởngấm, hành ấm, thức ấm. Bấy giờ, Tỳ-kheo giới thành tựusuy nghĩ năm thạnh ấm này liền thành đạo Tu-đà-hoàn.
Tỳ-kheobạch Tôn giả:
- Tỳ-kheoTu-đà-hoàn nên tư duy những pháp gì?
Tôngiả đáp:
- Tỳ-kheoTu-đà-hoàn cũng nên tư duy năm thạnh ấm này là khổ, lànão, là nhiều đau đớn, lo sợ; cũng nên tư duy khổ, không,vô ngã. Chư Hiền nên biết, Tỳ-kheo Tu-đà-hoàn nếu tư duynăm thạnh ấm này sẽ liền thành tựu quả Tư-đà-hàm.
CácTỳ-kheo hỏi:
- Tỳ-kheoTư-đà-hàm nên tư duy những pháp gì?
Tôngiả đáp:
- Tỳ-kheoTư-đà-hàm cũng nên tư duy năm thạnh ấm này là khổ, lànão, là nhiều đau đớn, lo sợ. Cũng nên tư duy khổ, không,vô ngã. Lúc ấy Tỳ-kheo Tư-đà-hàm ngay lúc tư duy năm thạnhấm liền thành tựu quả A-na-hàm.
CácTỳ-kheo hỏi:
- Tỳ-kheoA-na-hàm nên tư duy những pháp gì?
Tôngiả đáp:
- Tỳ-kheoA-na-hàm cũng nên tư duy năm thạnh ấm này là khổ, là não,là đau đớn, lo sợ. (Cũng nên tư duy khổ, không, vô ngã).Tỳ-kheo A-na-hàm lúc tư duy năm thạnh ấm liền thành A-la-hán.
CácTỳ-kheo hỏi:
- Tỳ-kheoA-la-hán nên suy nghĩ những pháp gì?
Tôngiả đáp:
- CácThầy có gì hỏi hơn nữa không? Tỳ-kheo A-la-hán việc làmđã xong, không còn tạo hạnh, tâm hữu lậu được giải thoát,chẳng còn hướng trong biển sanh tử năm đường; không cònthọ hậu hữu, còn tạo tác gì nữa? Thế nên, chư Hiền!Tỳ-kheo trì giới, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm nên tưduy năm thạnh ấm. Như thế các Tỳ-kheo nên học điều này.
Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Tôn giả Xá-lợi-phất nói xong, vui vẻvâng làm.
*
2.Tôi nghe như vầy:
Mộtthời Phật ở trong vườn Lộc Uyển (chư tiên đọa xứ) nướcBa-la-nạt.
Bấygiờ Như Lai thành đạo chưa được bao lâu, người đời gọiNgài là Ðại Sa-môn. Khi đó vua Ba-tư-nặc mới nối ngôi vua.Vua Ba-tư-nặc liền nghĩ rằng: "Nay ta mới nối ngôi vua, trướchết nên cưới con gái dòng họ Thích. Nếu được cho cưới,thật vừa lòng ta. Nếu không bằng lòng, ta sẽ dùng áp lựcđến bức bách".
Lúcấy vua Ba-tư-nặc bảo một vị quan:
- Hãyđi đến nhà dòng họ Thích ở Ca-tỳ-la-vệ đem tên tuổita báo cho họ Thích rằng: "Vua Ba-tư-nặc vấn an sức khỏechí ý vô lượng". Rồi hãy bảo họ Thích đó rằng ta muốncưới con gái họ Thích. Nếu gả cho ta, ta sẽ ghi mãi ơn đức;nếu không thuận ta sẽ đem lực lượng đến áp bức. Ðạithần vâng lệnh vua, đến nước Ca-tỳ-la-vệ. Bấy giờ dònghọ Thích ở Ca-tỳ-la-vệ có năm trăm người nhóm chung mộtchỗ. Ðại thần liền đến chỗ năm trăm vị họ Thích; đemtên tuổi vua Ba-tư-nặc bảo họ Thích kia rằng:
- VuaBa-tư-nặc ân cần hỏi thăm sức khỏe mong được chí ý vôlượng. Vua muốn cưới con gái họ Thích, nếu gả cho thậtlà đại hạnh, nếu không gả, vua sẽ dùng sức ép bức."
Cácvị họ Thích nghe lời này xong, hết sức sân hận: "Chúngta là dòng dõi lớn, duyên cớ gì lại cùng tên hèn mọn kếtthân". Trong chúng hoặc có người nói nên cho, hoặc có ngườinói không nên cho.
Bấygiờ trong nhóm họ Thích có người tên Ma-ha-nam bảo mọi ngườirằng:
- ChưHiền chớ sân giận. Vì sao thế? Vua Ba-tư-nặc là ngườibạo ác. Nếu đương cự thì vua Ba-tư-nặc đến sẽ đánhbại nước ta. Nay ta sẽ đến cùng Ba-tư-nặc tương kiến,bàn về sự tình này.
Trongnhà Ma-ha-nam có một tỳ nữ, sanh được một con gái diệnmạo đoan chánh, hiếm có trên đời. Ma-ha-nam sai tắm rửacô gái này, cho mặc áo đẹp, ngồi trên xe vũ bảo, đưa đếncho vua Ba-tư-nặc, lại tâu với vua rằng:
- Ðâylà con gái của tôi, có thể cùng ngài thành thân.
VuaBa-tư-nặc được cô gái này hết sức vui mừng, liền lậpcô làm đệ nhất phu nhân. Chưa được vài ngày, cô mang thai,lại trải qua tám, chín tháng sanh ra một cậu bé đoan chánhvô song, thế gian hiếm có. Vua Ba-tư-nặc liền tụ tập cácthầy tướng để đặt tên tự cho thái tử này.
Cácthầy tướng nghe vua nói xong, liền tâu vua rằng:
- Ðạivương nên biết, lúc cầu phu nhân, các người họ Thích tranhluận với nhau, có người nói "nên cho", người nói "khôngnên cho", khiến đây đó lưu ly. Nay nên đặt tên gọi là LưuLy Tỳ-lưu-lặc.
Thầytướng đặt hiệu xong, mỗi người từ chỗ ngồi đứng dậymà đi.
VuaBa-tư-nặc yêu thương thái tử Lưu Ly này, chưa từng rờimắt. Khi thái tử Lưu Ly vừa tám tuổi, vua bảo thái tử rằng:
- Naycon đã lớn, nên đến Ca-tỳ-la-vệ học bắn cung.
Khiđó, vua Ba-tư-nặc cấp cho Thái tử những người hầu, khiếncỡi voi lớn đến nhà Ma-ha-nam dòng họ Thích, bảo Ma-ha-namrằng:
- VuaBa-tư-nặc sai con đến đây học các xạ thuật. Cúi mong ôngbà, dạy dỗ mọi sự.
Ma-ha-nambảo:
- Muốnhọc thuật thì khéo nên tập tành.
ThíchMa-ha-nam tụ họp năm trăm trẻ con khiến cùng học xạ thuật.Thái tử Lưu Ly cùng học xạ thuật với năm trăm trẻ.
Bấygiờ trong thành Ca-tỳ-la-vệ mới dựng một giảng đường.Trời và nhân dân, Ma và Thiên ma trụ trong giảng đường này.Những người họ Thích nói với nhau:
- Naygiảng đường hoàn thành chưa lâu, vẽ vời chưa xong, khôngkhác thiên cung. Chúng ta trước hết nên thỉnh Như Lai và Tỳ-kheoTăng vào đây để cúng dường, khiến chúng ta được phướcvô cùng.
Khiấy, họ Thích ở trên giảng đường trải các thứ tọa cụ,treo tràng phang bảo cái; dầu thơm rưới trên đất, đốtcác danh hương; lại chứa nước tốt, đốt sáng các đèn.Bấy giờ thái tử Lưu Ly dẫn năm trăm đứa trẻ đến giảngđường, rồi leo ngay lên tòa sư tử. Những người họ Thíchtrông thấy hết sức giận dữ, bèn xông tới lôi cánh taythái tử, kéo ra ngoài cửa, xúm nhau mắng nhiếc:
- Ðâylà đứa con nô tỳ, chư Thiên và mọi người chưa có ai dámvào đây, mà đứa con nô tỳ này dám vào đây ngồi.
Rồihọ lại xô thái tử Lưu Ly ngã xuống đất. Thái tử LưuLy chỗi dậy, than một tiếng dài rồi ngó lại phía sau. Lúcấy có người con của Phạm Chí tên là Hiếu Khổ. Thái tửLưu Ly bảo Hiếu Khổ rằng:
- HọThích hủy nhục ta đến thế này. Sau này nếu ta nối ngôivua, ông nên nhắc ta chuyện này.
HiếuKhổ, người con Phạm Chí đáp:
- Xinvâng lời dạy của thái tử.
Từđó, mỗi ngày người con Phạm Chí kia tâu Thái tử ba lần:
- Hãynhớ mối nhục họ Thích.
Rồinói kệ:
Tấtcả đều sẽ tận,
Quảchín cũng sẽ rụng,
Hộihọp ắt sẽ tan,
Cósanh thì có chết.
Ðếnkhi vua Ba-tư-nặc theo tuổi thọ qua đời, thái tử Lưu Ly đượclập làm vua. Phạm chí Hiếu Khổ đến chỗ vua nói rằng:
- Vuahãy nhớ xưa bị họ Thích hủy nhục.
VuaLưu Ly đáp:
- Lànhthay! Lành thay! Khéo nhớ việc cũ.
Khiấy vua Lưu Ly liền nổi cơn giận dữ bảo quần thần:
- Naychúa tể của nhân dân là ai?
Quầnthầu tâu:
- Ngàynay do Ðại vương thống lãnh.
VuaLưu Ly bảo:
- CácÔng mau sửa soạn xe, tụ tập bốn bộ binh. Ta muốn chinh phụchọ Thích.
Chưthần đáp:
- Xinvâng, Ðại vương.
Quầnthần nhận lệnh vua liền chiêu tập bốn binh chủng. Vua LưuLy dẫn bốn bộ binh đến nước Ca-tỳ-la-vệ.
Bấygiờ rất đông Tỳ-kheo nghe vua Lưu Ly chinh phạt họ Thích,liền đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi đứng một bên, đemnhân duyên này kể lại đầy đủ cho Thế Tôn. Thế Tôn nghexong liền đến cản vua Lưu Ly. Ngài đến một cây khô khôngcó cành lá ngồi kiết-già. Vua Lưu Ly từ xa thấy Thế Tônngồi dưới gốc cây, liền xuống xe đến chỗ Thế Tôn, cúilạy rồi đứng một bên. Bấy giờ vua Lưu Ly bạch Thế Tônrằng:
- Cónhững cây tốt, cành lá sum sê như loại ni-câu-lưu v.v... SaoNgài lại ngồi dưới cây khô này?
ThếTôn đáp:
- Bóngmát của thân tộc hơn hẳn người ngoài.
VuaLưu Ly liền nghĩ:
- Hômnay Thế Tôn cố vì thân tộc. Vậy hôm nay ta nên trở vềnước, chẳng nên chinh phạt Ca-tỳ-la-vệ.
VuaLưu Ly liền cáo từ lui về. Khi ấy Phạm chí Hiếu Khổ lạitâu vua:
- Hãynhớ xưa bị họ Thích làm nhục.
VuaLưu Ly nghe lời này xong lại nổi sân giận.
- CácNgươi mau sửa soạn xe cộ, tập họp bốn bộ binh. Ta muốnchinh phạt Ca-tỳ-la-vệ.
Quầnthần lập tức chiêu tập bốn bộ binh ra khỏi thành Xá-vệđến Ca-tỳ-la-vệ chinh phạt họ Thích. Khi ấy rất đôngTỳ-kheo nghe được đến bạch Thế Tôn.
- NayLưu Ly hưng binh đi tấn công họ Thích.
Bấygiờ Thế Tôn nghe lời này xong liền dùng thần túc đến bênđường ngồi dưới một gốc cây. Vua Lưu Ly xa thấy ThếTôn ngồi dưới gốc cây liền xuống xe đến chỗ Thế Tôn,cúi lạy rồi đứng một bên. Bấy giờ vua Lưu Ly bạch ThếTôn:
- Lạicó những cây tốt sao Ngài không đến ngồi mà hôm nay ThếTôn cớ gì lại ngồi dưới cây khô này?
ThếTôn đáp:
- Bóngmát của thân tộc hơn người ngoài.
Khiấy Thế Tôn liền nói kệ:
Bóngmát của thân tộc
Từhọ Thích có Phật
Ðềulà cành lá Ta
Nênngồi dưới cây ấy.
VuaLưu Ly lại nghĩ:
- Ngàynay Thế Tôn phát xuất từ dòng họ Thích. Ta không nên chinhphạt, nên cùng quay về nước.
VuaLưu Ly liền trở về thành Xá-vệ, Phạm chí Hiếu Khổ lạibảo vua rằng:
- Vuanên nhớ cái nhục họ Thích ngày xưa.
VuaLưu Ly nghe xong, lại chiêu tập bốn bộ binh kéo ra khỏi thànhXá-vệ đến Ca-tỳ-la-vệ. Khi ấy. Ðại Mục-kiền-liên nghevua Lưu Ly chinh phạt họ Thích, liền đến chỗ Thế Tôn, cúilạy rồi đứng một bên. Bấy giờ Ðại Mục-kiền-liên bạchThế Tôn:
- Hômnay vua Lưu Ly triệu tập bốn bộ binh đi công phạt dòng họThích. Nay con đủ sức khiến cho vua Lưu Ly và bốn bộ binh,ném họ sang thế giới phương khác.
ThếTôn bảo:
- Thầyhá có thể đem túc duyên của họ Thích ném sang phương khácsao?
Tôngiả Mục-liên bạch Phật:
- Thậtkhông thể đem túc duyên đặt vào thế giới phương khác.
ThếTôn bảo Mục-liền:
- Thầyvề chỗ ngồi đi.
Mục-liênlại bạch Phật:
- Naycon có thể dời thành Ca-tỳ-la-vệ này để lên hư không.
ThếTôn bảo:
- NayThầy có thể dời túc duyên của họ Thích để trong hư khôngchăng?
Mục-liênđáp:
- Thưakhông, Thế Tôn.
Phậtbảo Mục-liên:
- NayThầy hãy về chỗ mình.
Bấygiờ Tôn giả Mục-liên lại bạch Phật:
- Cúimong Thế Tôn cho phép con lấy lồng sắt thưa, chụp lên thànhCa-tỳ-la-vệ.
ThếTôn bảo:
- Thếnào Mục-liên? Có thể lấy lồng sắt thưa chụp lên túc duyênchăng?
Mục-liênđáp:
- Thưakhông, Thế Tôn.
Phậtbảo Mục-liên:
- NayThầy trở về chỗ đi. Hôm nay họ Thích túc duyên đã chín,nay sẽ thọ báo.
Bấygiờ Thế Tôn liền nói kệ:
Muốnhư không làm đất,
Lạikhiến đất thành không,
Chỗduyên xưa trói buộc,
Duyênnày không hư bại.
Lúcấy vua Lưu Ly đến Ca-tỳ-la-vệ. Các người họ Thích nghe"vua Lưu Ly đem bốn bộ binh đến công phạt chúng ta". Họtụ tập bốn bộ chúng trong một do-tuần đến ngăn vua LưuLy.
Khiấy, các người họ Thích trong một do-tuần từ xa bắn vuaLưu Ly; hoặc bắn vào tai mà không thương tổn đến tai; hoặcbắn vào búi tóc, không làm tổn thương đầu; hoặc bắn cunggãy, hoặc bắn dây cung không hại đến người; hoặc bắnáo giáp không thương tổn người; hoặc bắn sàng tòa khônghại người; hoặc bắn bánh xe hư, không thương tổn người;hoặc làm hư cờ xí không hại người.
Khiấy vua Lưu Ly thấy việc này rồi sợ hãi bảo quần thần:
- CácNgươi xem tên này từ đâu tới?
Quầnthần đáp:
- Cácngười họ Thích này cách đây một do-tuần bắn tên đến.
VuaLưu Ly bảo:
- Họdù phát tâm muốn hại ta, phải cho họ chết hết mới nêntrở về Xá-vệ.
Bấygiờ Phạm chí Hiếu Khổ đến trước tâu vua rằng:
- Ðạivương chớ sợ! Những người họ Thích này đều trì giới,côn trùng còn chẳng hại huống là hại người. Nay ta nêntiến đến trước ắt có thể phá được họ Thích.
VuaLưu Ly dần dần tiến lên hướng đến họ Thích. Những ngườihọ Thích lại vào trong thành. Vua Lưu Ly ở ngoài thành bảohọ rằng:
- CácÔng mau mở cửa thành! Nếu không, ta sẽ giết hết các Ông.
Bấygiờ thành Ca-tỳ-la-vệ có đứa trẻ họ Thích, tuổi mớimười lăm tên là Xà-ma; nghe vua Lưu Ly nay ở ngoài cửa liềnmặc giáp cầm gậy, đến trên thành một mình đánh nhau vớivua Lưu Ly. Khi ấy đứa bé Xà-ma giết hại nhiều binh lính,họ chạy tán loạn, nói:
- Ðâylà người nào? Là trời hay là quỷ thần? Xa trông giống nhưđứa bé!
Lúcấy vua Lưu Ly liền sợ hãi, vào tránh trong một hố đất.
HọThích nghe binh lính vua Lưu Ly bị hại. Khi ấy, họ Thích liềngọi đứa bé Xà-ma mà bảo rằng:
- Ngườituổi nhỏ cớ sao làm nhục môn hộ của chúng ta? Há chẳngbiết họ Thích tu hành pháp lành sao? Chúng ta còn chẳng thểhại côn trùng huống là mạng người sao? Chúng ta có thểphá tan quân lính này, một người chống muôn người, nhưngchúng ta lại nghĩ rằng: "Như thế giết hại chúng sanh khôngthể tính kể". Thế Tôn cũng nói: "Phàm người giết mạngngười, chết sẽ vào địa ngục. Nếu sanh trong loài Ngườithọ mạng rất ngắn". Ngươi mau đi đi, không được ở đâynữa.
Khiấy, đứa bé Xà-ma liền đi ra khỏi nước, không vào Ca-tỳ-la-vệnữa. Vua Lưu Ly lại đến giữa cửa bảo người ấy rằng:
- Maumở cửa thành chẳng nên chần chờ.
Khiấy, những người họ Thích bảo nhau rằng:
- Nênmở hay không mở?
Bấygiờ tệ ma Ba-tuần ở trong họ Thích, biến thành một ngườihọ Thích bảo họ Thích:
- CácÔng nên mở cửa thành, chớ cũng chịu khốn hôm nay.
HọThích liền cho mở cửa thành. Khi ấy vua Lưu Ly liền bảoquần thần:
- Naynhân dân họ Thích rất nhiều, chẳng phải đao kiếm có thểhại hết được. Nên đem chôn chân trong đất, rồi sau chovoi dữ đạp chết.
Bấygiờ quần thần vâng lệnh vua; liền dùng voi đạp chết nhữngngười ấy. Vua Lưu Ly ra lệnh quần thần:
- CácÔng mau chọn năm trăm đàn bà đẹp đẽ họ Thích.
Quầnthần vâng lệnh vua, liền chọn năm trăm cô gái đoan chínhđem đến chỗ vua. Khi ấy, Thích Ma-ha-nam đến chỗ vua LưuLy rồi bảo rằng:
- Hãytheo ý nguyện của tôi!
VuaLưu Ly nói:
- Muốnnguyện những gì?
Ma-ha-nambảo:
- Naytôi lặn xuống đáy nước, tùy theo sự mau hay chậm của tôi,cho những người họ Thích được chạy trốn. Nếu tôi rakhỏi mặt nước, thì tùy ý giết.
VuaLưu Ly nói:
- Việcnày rất hay.
ThíchMa-ha-nam liền nhảy xuống nước, lấy tóc cột vào gốc câymà chết. Khi ấy, những người họ Thích trong thành Ca-tỳ-la-vệ,từ cửa Ðông ra lại đi vào cửa Nam; hoặc từ cửa Nam ralại vào cửa Bắc; hoặc từ cửa Tây ra lại vào cửa Bắc.Bấy giờ vua Lưu Ly bảo quần thần rằng:
- Tổphụ Ma-ha-nam cớ sao ẩn trong nước đến giờ chưa ra?
Cácquần thần nghe lệnh vua, nhảy xuống nước đem Ma-ha-nam đãchết lên. Vua Lưu Ly thấy Ma-ha-nam đã chết rồi, mới sanhlòng hối hận:
- Nayông của ta đã chết vì yêu thân tộc. Ta trước chẳng biếtnên để ông chết. Nếu biết thế, trọn chẳng đến chinhphạt họ Thích.
Khiấy vua Lưu Ly giết chín ngàn chín trăm chín mươi vạn người,máu chảy thành sông quanh thành Ca-tỳ-la-vệ, rồi đến vườnNi-câu-lưu. Bấy giờ vua Lưu Ly bảo năm trăm cô gái họ Thíchrằng:
- Cácvị cẩn thận chớ có sầu lo. Ta là chồng các vị, các vịlà vợ ta, phải nên tiếp đãi nhau.
Khiấy, vua Lưu Ly bèn vươn tay bắt một cô, muốn đùa cợt.Cô gái hỏi:
- Ðạivương muốn làm gì?
Vuađáp:
- Muốncùng cô giao tình.
Côgái đáp vua:
- Nayta cớ sao phải cùng con của đầy tớ gái thông giao?
VuaLưu Ly hết sức giận dữ, ra lệnh cho quần thần:
- Mauđem cô gái này chặt tay chân rồi đẩy xuống hầm sâu.
Quầnthần tuân lệnh vua chặt tay chân cô gái, ném cô xuống hầm.Năm trăm cô gái đều mắng nhiếc vua:
- Aimà đem thân này cùng con của đầy tớ gái thông giao?
Vuagiận dữ đem hết năm trăm cô chặt tay chân và xô xuốnghầm sâu.
Lúcấy vua Lưu Ly đã tàn hại hết Ca-tỳ-la-vệ rồi, liền trởvề thành Xá-vệ. Bấy giờ Thái tử Kỳ-đà ở trong thâmcung cùng các kỹ nữ vui chơi. Vua Lưu Ly nghe tiếng đàn hátliền hỏi:
- Ðâylà âm thanh gì mà vang đến đây?
Quầnthần đáp vua rằng:
- Ðâylà Vương tử Kỳ-đà ở trong thâm cung, xướng kỹ nhạc đểvui chơi.
VuaLưu Ly liền sai người hầu:
- Ôngquay voi này lại chỗ Vương tử Kỳ-đà.
Ngườigiữ cửa từ xa trông thấy vua đến liền tâu rằng:
- Vuahãy thong thả, Vương tử Kỳ-đà đang ở trong cung, vui ngũdục, xin chớ quấy nhiễu.
VuaLưu Ly liền rút kiếm giết người giữ cửa. Vương tử Kỳ-đànghe vua Lưu Ly đứng ở ngoài cửa, chẳng từ giã kỹ nữ,đi ra ngoài cùng vua tương kiến.
- Kínhchào Ðại vương! Nên vào nghỉ một chút!
VuaLưu Ly bảo:
- HáÔng không biết ta cùng họ Thích đánh nhau sao?
Kỳ-đàđáp:
- Cónghe.
VuaLưu Ly nói:
- Saonay Ông cùng kỹ nữ đùa giỡn không chịu giúp ta?
Vươngtử Kỳ-đà đáp:
- Tachẳng kham giết hại mạng chúng sanh.
VuaLưu Ly hết sức giận dữ, rút gươm chém chết Vương tửKỳ-đà. Vương tử Kỳ-đà chết rồi sanh lên cõi trời Bamươi ba vui chơi cùng năm trăm thiên nữ.
Bấygiờ Thế Tôn dùng thiên nhãn xem Vương tử Kỳ-đà đã chếtsanh cõi trời Ba mươi ba, liền nói kệ:
Hưởngphúc trong Trời, Người,
ÐứcVương tử Kỳ-đà,
Làmlành sau hưởng báo,
Ðềudo báo hiện tại.
Ðâylo kia cũng lo,
LưuLy hai chỗ lo,
Làmác sau hưởng ác,
Ðềudo báo hiện tại.
Nênnương công phước đức,
Trướclàm sau cũng vậy,
Hoặcriêng một mình làm,
Hoặclại người chẳng biết,
Làmác có biết ác,
Trướclàm sau cũng vậy,
Hoặcriêng một mình làm,
Hoặclại người chẳng biết,
Hưởngphước trong Trời, Người,
Hainơi đều hưởng phước,
Làmlành sau thọ báo,
Ðềudo báo hiện tại.
Ðâylo kia cũng lo,
Làmác hai chỗ lo,
Làmác sau thọ báo,
Ðềudo báo hiện tại.
Bấygiờ năm trăm cô gái họ Thích, tự quay về kêu xưng tên hiệuNhư Lai:
- NhưLai ra đời cũng từ đây, xuất gia học đạo mà sau thànhPhật, thế mà ngày nay Phật trọn chẳng thấy nhớ nghĩ chúngcon gặp khổ não này, chịu đau đớn độc hại này. ThếTôn cớ sao không thấy nhớ?
Bấygiờ Thế Tôn dùng thiên nhãn thông suốt nghe các cô họ Thíchkêu oán với Phật. Thế Tôn liền bảo các Tỳ-kheo:
- CácThầy lại hết đây, cùng xem Ca-tỳ-la-vệ và cùng xem nhữngngười thân mạng chung.
CácTỳ-kheo đáp:
- Xinvâng! Thế Tôn.
Bấygiờ Thế Tôn dẫn các Tỳ-kheo ra khỏi thành Xá-vệ đếnCa-tỳ-la-vệ. Năm trăm cô gái họ Thích từ xa thấy Thế Tôncùng các Tỳ-kheo đến, thấy rồi đều hổ thẹn.
Khiấy, Thích-đề-hoàn-nhân và Tỳ-sa-môn Thiên vương đứngquạt sau Thế Tôn. Thế Tôn quay lại bảo Thích-đề-hoàn nhân:
- Nhữngcô gái họ Thích này đều hổ thẹn.
Thích-đề-hoànnhân đáp:
- Ðúngvậy, Thế Tôn!
Thích-đề-hoànnhân liền lấy y Trời trùm lên thân thể năm trăm cô gáinày. Bấy giờ Thế Tôn bảo Tỳ-sa-môn Thiên vương:
- Cáccô gái này đói khát lâu ngày, nên làm cách gì ban bố!
Tỳ-sa-mônThiên vương bạch Phật:
- Xinvâng, Thế Tôn!
RồiTỳ-sa-môn Thiên vương liền bày biện các thức ăn tự nhiêncủa Trời cho các cô gái họ Thích đều được no đủ. Bấygiờ Thế Tôn dần dần thuyết pháp vi diệu cho các cô. Nghĩalà:
- Cácpháp rồi sẽ ly tán, hội ngộ rồi sẽ biệt ly. Các Cô nênbiết, năm thạnh ấm này đều sẽ chịu các đau khổ, phiềnnão này, đọa trong năm đường. Phàm thọ thân năm thạnhấm này, ắt sẽ chịu hành báo này; đã có hành báo liềncó thọ thai, đã có thọ thai lại sẽ chịu quả báo khổvui. Nếu không có năm thạnh ấm thì liền chẳng thọ thânnữa. Nếu không thọ thân thì không có sanh. Vì không sanh thìkhông già, vì không già thì không có bệnh, đã không có bệnhthì không có chết, đã không có chết thì không có khổ nãovì hội họp biệt ly. Thế nên các Cô nên nhớ sự biến đổithành bại của năm ấm này. Sở dĩ như thế, vì biết nămấm thì biết năm dục, đã biết năm dục thì biết pháp ái,đã biết pháp ái thì biết pháp nhiễm trước. Biết các việcnày rồi thì không tái sanh nữa, đã không tái sanh thì khôngsanh, lão, bệnh, tử.
Bấygiờ Thế Tôn dần dần thuyết pháp này cho các cô gái họThích. Luận là thí luận, giới luận, luận sanh thiên; dụclà tưởng bất tịnh, xuất yếu là vui. Bấy giờ Thế Tônquán xét các cô gái này tâm ý đã khai mở, những pháp nhưThế Tôn thường thuyết: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, Thế Tônđều thuyết hết cho họ.
Bấygiờ các cô gái, những trần cấu đã sạch, được pháp nhãnthanh tịnh, mỗi người ở chỗ mình mà mạng chung, đều sanhlên trời. Khi ấy Thế Tôn đến cửa Ðông, thấy khói lửadậy trời liền nói kệ:
Tấtcả hành vô thường,
Cósanh ắt có tử,
Chẳngsanh thì chẳng tử,
Diệtnày là vui nhất.
Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Tấtcả các Thầy hãy đến vườn Ni-câu-lưu mà ngồi.
Khiấy, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Ðâylà vườn Ni-câu-lưu. Ngày xưa Ta ở đây rộng thuyết giáopháp cho các Tỳ-kheo mà ngày nay trống rỗng chẳng có nhândân! Ngày xưa mấy ngàn vạn chúng ở đây đắc đạo, đượcpháp nhãn thanh tịnh. Từ đây về sau, Như Lai chẳng còn đếnđây nữa!
ThếTôn thuyết pháp cho các Tỳ-kheo rồi, mỗi người từ chỗngồi đứng dậy mà đi đến Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườnCấp Cô Ðộc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nayvua Lưu Ly và quân lính này chẳng còn ở đời bao lâu nữa.Sau bảy ngày sẽ bị tiêu diệt.
Bấygiờ vua Lưu Ly nghe Thế Tôn thọ ký rằng vua Lưu Ly và quânlính sau bảy ngày sẽ bị tiêu diệt thì hoảng sợ bảo quầnthần rằng:
- NayNhư Lai đã huyền ký rằng vua Lưu Ly chẳng còn ở đời lâu,sau bảy ngày sẽ cùng quân lính chết hết. Các Ông xem bênngoài không có trộm giặc, nước, lửa, tai biến đến xâmphạm đất nước chăng? Vì cớ sao? Chư Phật Như Lai khôngcó hai lời, lời nói trọn không đổi khác.
Bấygiờ Phạm chí Hiếu Khổ tâu vua:
- Vuachớ sợ hãi. Nay bên ngoài không có giặc cướp đáng sợ,cũng không nước, lửa tai biến. Hôm nay Ðại vương hãy mauvui chơi.
VuaLưu Ly nói:
- PhạmChí nên biết, chư Phật Thế Tôn nói không có khác.
VuaLưu Ly sai người đếm ngày, đến đầu ngày thứ bảy, Ðạivương mừng rỡ không thể tự kềm, đem các quân binh cùngcác thể nữ đến bên bờ sông A-chi-la vui chơi rồi nghỉở đó. Nửa đêm, có mây bất ngờ kéo đến, gió to mưa lớnrất mau. Vua Lưu Ly và quân lính bị nước cuốn hết, tấtcả đều tự tiêu diệt, thân hoại mạng chung sanh vào trongđịa ngục A-tỳ. Lại có lửa Trời đốt cung điện trongthành. Bấy giờ Thế Tôn dùng thiên nhãn xem thấy vua Lưu Lyvà bốn bộ chúng bị nước cuốn, đều mệnh chung vào trongđịa ngục.
Bấygiờ Thế Tôn liền nói kệ:
Tạoác thật quá sức,
Ðềudo thân miệng làm,
Thânnày chịu khổ não,
Thọmạng cũng ngắn ngủi.
Nếulúc ở tại nhà,
Thìbị lửa thiêu đốt,
Nếulúc mạng đã hết,
Ắtsanh trong địa ngục.
Bấygiờ nhiều Tỳ-kheo trong chúng bạch Thế Tôn:
- Nayvua Lưu Ly và bốn bộ binh đã chết rồi sanh về đâu?
ThếTôn bảo:
- Nayvua Lưu Ly vào trong địa ngục A tỳ.
CácTỳ-kheo bạch Thế Tôn:
- Nhữnghọ Thích này ngày xưa tạo nhân duyên gì mà nay bị vua LưuLy hại?
Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Ngàyxưa trong thành La-duyệt này, có một làng đánh cá. Khi ấyđời hết sức đói nghèo, người phải ăn rễ cây, một đấuvàng đổi một đấu gạo. Trong làng đó có một ao tắm lớnlại rất nhiều cá. Nhân dân trong thành La-duyệt đều đếnao bắt cá ăn. Ngay lúc đó, dưới nước có hai thứ cá: mộttên Câu tỏa; hai tên Lưỡng thiệt (hai lưỡi). Khi đó, haicá bảo nhau: "Chúng ta đối với những người này, trướctiên không có lỗi lầm. Ta là vật thuộc thủy tánh, khôngở đất bằng. Nhân dân này đều đến ăn nuốt chúng ta.Ðời trước nếu có chút ít phước đức gì sẽ dùng báooán".
Bấygiờ trong làng có một đứa bé vừa tám tuổi, không đánhcá cũng không hại mạng chúng. Nhưng lúc những con cá kia chếtở trên bờ, đứa bé ấy thấy xong hết sức hoan hỷ.
Tỳ-kheonên biết! Các Thầy chớ xem rằng nhân dân trong thành La-duyệtbấy giờ là người nào khác, nay họ chính là những ngườihọ Thích vậy. Con cá Câu tỏa bấy giờ, nay là vua Lưu Ly.Con cá Lưỡng thiệt bấy giờ, nay là Phạm chí Hiếu Khổ.Ðứa bé thấy cá trên bờ mà cười lúc đó, nay chính làTa. Dòng họ Thích lúc ấy ngồi ăn cá. Do nhân duyên này trongvô số kiếp vào trong địa ngục, nay chịu sự trả thù này.Ta lúc ấy ngồi thấy mà cười, nay bị đau đầu như đáđè, ví như lấy đầu đội núi Tu-di. Vì sao như thế? VìNhư Lai không thọ thân nữa, đã xả bỏ các hành, qua hếtcác nguy nan. Ðó là, này các Tỳ-kheo! Do nhân duyên này, naychịu quả báo này. Các Tỳ-kheo nên giữ gìn hành động củathân, miệng, ý; nên nhớ cung kính thừa sự người Phạm hạnh.Như thế, các Tỳ-kheo! Nên học điều này.
Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
3.Tôi nghe như vầy:
Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Còộc.
Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nênbiết Thiên tử khi sắp mạng chung có năm điềm chưa từngcó ứng hiện ở trước. Thế nào là năm? Hoa héo, y phụccáu bẩn, thân thể hôi hám, chẳng ưa địa vị của mình,Thiên nữ tinh tán.
Ðólà Thiên tử lúc sắp mạng chung có năm điềm ứng này. Bấygiờ Thiên tử hết sức sầu lo, đấm ngực kêu gào. Khi ấycác Thiên tử đến chỗ Thiên tử này, bảo Thiên tử này:
- NayÔng tương lai có thể sanh chỗ lành, đã sanh chỗ lành, chóngđược lợi lành, đã được lợi lành nên nhớ an xử thiệnnghiệp.
Khiđó, các vị Trời dạy dỗ Thiên tử ấy như thế.
MộtTỳ-kheo bạch Thế Tôn:
- TrờiBa mươi ba, thế nào là được sanh cõi lành? Thế nào là chóngđược lợi lành? Thế nào là an xử nghiệp lành?
ThếTôn bảo:
- Nhângian đối với Trời là cõi lành, được cõi lành. Ðượclợi lành là sanh nhà chánh kiến, tùng sự bậc thiện tri thức,ở trong pháp Như Lai được tín căn. Ðó gọi là chóng đượclợi lành. Thế nào gọi là an xử nghiệp lành? Là ở trongpháp Như Lai được tín căn, cạo bỏ râu tóc, do lòng tin kiêncố, xuất gia học đạo. Kia đã học đạo, giới tánh đầyđủ, các căn đầy đủ, ăn uống biết đủ, hằng nhớ kinhhành đắc Tam minh. Ðó gọi là an xử nghiệp lành.
ThếTôn liền nói kệ này:
Ngườilà cõi lành Trời,
Bạntốt là lợi lành,
Xuấtgia là nghiệp lành,
Hữulậu hết, vô lậu.
Tỳ-kheonên biết, Trời Ba mươi ba dính mắc vào ngũ dục. Họ chonhân gian là cõi lành, ở pháp Như Lai được xuất gia, làmlợi lành mà được tam đạt. Vì sao thế? Phật Thế Tôn đềuxuất hiện ở nhân gian chẳng phải do Trời mà được. Thếnên Tỳ-kheo! Ở đây mạng chung sẽ sanh lên Trời.
Bấygiờ Tỳ-kheo kia bạch Thế Tôn rằng:
- Thếnào là Tỳ-kheo sẽ sanh cõi lành?
ThếTôn bảo:
- Niết-bànlà cõi lành của Tỳ-kheo. Nay Tỳ-kheo các Thầy nên cầu phươngtiện được đến Niết-bàn. Như thế, Tỳ-kheo nên học điềunày.
Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
4.Tôi nghe như vầy:
Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Còộc.
Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Sa-mônxuất gia có năm pháp hủy nhục. Thế nào là năm? Ðầu tócdài, móng tay dài, y phục bẩn thỉu, chẳng biết thời nghi,nói năng nhiều.
Vìsao thế? Tỳ-kheo có nhiều luận thuyết lại có năm việc.Thế nào là năm? Người chẳng tin lời, chẳng nhận lời dạy,người chẳng ưa gặp, nói láo, cãi lộn kia đây.
Ðólà người nói năng nhiều có năm việc này. Tỳ-kheo nên từbỏ năm điều này. Chớ có tưởng tà. Như thế, các Tỳ-kheo,nên học điều này.
Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
5.Tôi nghe như vầy:
Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Còộc.
Bấygiờ Thế Tôn cùng ở với năm trăm vị Tỳ-kheo. Khi đó vuaTần-bà-sa-la ra lệnh cho quần thần:
- Mausửa soạn kiệu xe để ta đến thành Xá-vệ thăm viếng đứcThế Tôn.
Quầnthần vâng lời vua, sửa soạn kiệu xe, đến trước vua tâurằng:
- Sửasoạn đã xong, xin vua biết phải thời.
Bấygiờ vua Tần-bà-sa-la lên kiệu xe ra khỏi thành La-duyệt đếnthành Xá-vệ, dần đến Tinh xá Kỳ Hoàn, muốn vào tinh xá.Phàm pháp quán đảnh của vua có năm uy dung, vua đều bỏ xuốngmột bên, đi đến trước Thế Tôn đảnh lễ rồi lui vềmột bên. Khi ấy, Thế Tôn dần dần thuyết pháp vi diệu chovua. Vua nghe pháp xong, bạch đức Thế Tôn:
- Cúimong Như Lai hãy nhập hạ tại thành La-duyệt, con sẽ cung cấpy phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men.
Bấygiờ Thế Tôn im lặng, nhận lời thỉnh của vua Tần-bà-sa-la.Vua thấy Thế Tôn im lặng nhận lời thỉnh rồi, liền đứnglên lạy, đi nhiễu ba vòng rồi lui đi; trở về thành La-duyệt,vào cung. Khi ấy, vua Tần-bà-sa-la ở chỗ vắng vẻ chợt nghĩ:"Ta cũng đủ sức cúng dường Như Lai và Tỳ-kheo Tăng cho đếntrọn đời về y phục, thức ăn uống, giường nằm và thuốcmen, nhưng cũng nên lân mẫn người hạ liệt". Lúc ấy vuaTần-bà-sa-la tìm quần thần bảo:
- Hômqua ta sanh niệm này: "Ta có thể suốt đời cúng dường NhưLai và Tỳ-kheo Tăng y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốcmen. Cũng lại nên thương xót người thấp kém". Các Ông nênđốc suất nhau lần lượt dâng thức ăn cho Như Lai và chưHiền, sẽ được hưởng phước lâu dài vô cùng.
Khiấy, vua nước Ma-kiệt liền ở ngay trước cửa cung lập mộtgiảng đường lớn, lại bày biện vật dụng đựng thứcăn.
Bấygiờ, Thế Tôn ra khỏi nước Xá-vệ dẫn năm trăm chúng Tỳ-kheodu hóa trong nhân gian lần lần đến vườn trúc Ca-lan-đà thànhLa-duyệt. Vua Tần-bà-sa-la nghe Thế Tôn đến vườn trúc Ca-lan-đàliền lên kiệu xe đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồimột bên. Vua Tần-bà-sa-la bạch Thế Tôn:
- Conở chỗ nhàn vắng liền sanh niệm này: "Như ta hôm nay có thểcúng dường y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men".Rồi nhớ đến người thấp kém, con liền bảo quần thần:"Các Ngươi mỗi người nên sắm sửa thức ăn uống, lầnlượt cúng dường thức ăn lên Phật". Bạch Thế Tôn, thếnào? Như thế nên hay không nên?
ThếTôn bảo:
- Lànhthay! Lành thay! Ðại vương có nhiều lợi ích. Vì Trời, Ngườimà làm ruộng phước.
VuaTần-bà-sa-la bạch Thế Tôn rằng:
- Cúimong Thế Tôn ngày mai vào cung thọ thực.
Lúcấy, vua Tần-bà-sa-la đã thấy Thế Tôn im lặng nhận lờimời. Vua liền đứng dậy cúi lạy lui đi.
Bấygiờ, Thế Tôn sáng sớm ngày mai đắp y ôm bát vào thành,đến cung vua, mỗi người theo thứ tự mà ngồi. Khi ấy vuacung cấp món ăn trăm vị, tự tay châm chước, hoan hỉ chẳngloạn. Khi ấy vua Tần-bà-sa-la thấy Thế Tôn ăn xong, cấtdẹp bình bát, lấy một ghế thấp đến trước Như Lai ngồi.
Bấygiờ Thế Tôn dần dần thuyết pháp vi diệu cho vua, khiếnphát tâm hoan hỉ. Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho vua và cácđại thần. Luận, nghĩa là thí luận, giới luận, luận sanhthiên; dục là tưởng bất thịnh; dâm là uế ác; xuất yếulà vui.
Lúcấy, Thế Tôn biết chúng sanh kia tâm ý đã khai mở, khôngcòn hồ nghi pháp mà chư Phật Thế Tôn thường thuyết làKhổ, Tập, Diệt, Ðạo, Thế Tôn đều thuyết hết cho họ.Ngay tại chỗ ngồi, hơn sáu mươi người, các trần cấu sạch,được pháp nhãn thanh tịnh. Sáu mươi đại thần và năm trămthiên nhân, các trần cấu sạch, được pháp nhãn thanh tịnh.
Bấygiờ Thế Tôn liền nói kệ tụng cho vua Tần-bà-sa-la và nhândân:
Tếtự, lửa hơn hết,
Cácsách, tụng hơn hết,
Vuađáng trọng trong người,
Cácdòng, biển là nguồn,
Giữasao, trăng chiếu sáng,
Ánhsáng, mặt trời hơn,
Trêndưới và bốn phương,
Cácnơi có vạn vật,
Trờicùng với người đời,
Phậtlà cao trọng nhất,
Ngườimuốn cầu phước đức,
Nêncúng dường chư Phật.
ThếTôn nói kệ này rồi, liền từ chỗ ngồi đứng lên mà đi.Khi đó nhân dân trong thành La-duyệt, tùy sự quý tiện vàtheo nhà nhiều ít, cúng dường thức ăn đến Phật và Tỳ-kheoTăng.
Bấygiờ, Phật ở vườn Trúc Ca-la-đà, nhân dân trong nước khôngai không cúng dường. Các Phạm chí trong thành La-duyệt đếnlượt cúng thức ăn. Lúc đó, các Phạm chí ấy tụ họp mộtchỗ, bàn luận với nhau:
- Chúngta mỗi người bỏ ra ba lượng tiền vàng để cúng thức ăn.
Bấygiờ, trong thành La-duyệt có một Phạm Chí tên là Kê Ðầu,hết sức nghèo khó, chỉ tự đủ sống, không có tiền vàngđể nộp, liền bị các Phạm chí trục xuất ra khỏi chúng.Khi ấy, Phạm chí Kê Ðầu trở về nhà bảo vợ:
- NayBà nên biết, các Phạm chí đã xua đuổi ta, không cho ở trongchúng. Vì sao? Do ta không có tiền vàng.
Ngườivợ bảo:
- Hãytrở vào thành, theo người mượn nợ, ắt sẽ được. Lạibảo chủ nợ: "Bảy ngày sau sẽ trả nợ, nếu không trảđược, tôi và vợ sẽ làm tôi tớ".
PhạmChí theo lời vợ liền vào trong thành, đi khắp nơi hỏi mượntrọn chẳng thể được, trở về bảo vợ:
- Ởchỗ ta cầu hỏi chẳng được, làm sao bây giờ?
Ngườivợ bảo:
- PhíỪông thành La-duyệt có đại Trưởng giả tên Bất-xà-mật-đa-lanhiều tiền của, có thể đến ông ta mà mượn nợ, bảorằng: "Hãy bằng lòng cho ba lạng tiền vàng, sau bảy ngàysẽ đem trả lại. Nếu không trả được, tôi và vợ tôisẽ làm tôi tớ".
Phạmchí nghe theo lời vợ đến Bất-xà-mật-đa-la để mượn tiềnvàng, bảo rằng: "Chẳng quá bảy ngày sẽ đem hoàn lại; nếukhông hoàn lại, tôi và vợ sẽ đem thân làm tôi tớ".
Bất-xà-mật-đa-laliền cho tiền vàng. Phạm chí Kê Ðầu liền đem tiền vàngnày về nói với vợ:
- Ðãđược tiền vàng, phải nên làm gì?
Ngườivợ bảo:
- Nênđem tiền này nộp trong chúng.
PhạmChí cầm tiền vàng đến chúng nộp. Các Phạm chí bảo Phạmchí này rằng:
- Chúngta đã biện đủ rồi. Hãy đem tiền vàng này trở về đi,chẳng cần đứng trong chúng này.
Phạmchí liền trở về nhà, đem chuyện này nói với vợ. Ngườivợ bảo:
- Haichúng ta cùng đến chỗ Thế Tôn tự trình bày ý mọn.
Bấygiờ Phạm chí đem vợ đến chỗ Thế Tôn cùng thăm hỏi nhaurồi ngồi một bên. Người vợ cũng lễ chân Phật và ngồimột bên. Khi ấy Phạm chí đem chuyện này bạch đủ vớiThế Tôn. Thế Tôn bảo Phạm chí:
- Nhưnay Ông nên vì Như Lai và Tỳ-kheo Tăng bày biện thức ăn uống.
Phạmchí quay lại nhìn sững vợ. Người vợ đáp:
- Chỉtheo lời Phật dạy, chớ có nghi nan.
Phạmchí liền từ chỗ ngồi đứng lên đến trước bạch Phật:
- Cúimong Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo hãy nhận lời mời của con.
ThếTôn im lặng nhận lời thỉnh của Phạm chí.
Bấygiờ Thích-đề-hoàn-nhân vòng tay đứng hầu sau Thế Tôn.Thế Tôn quay lại bảo Thích-đề-hoàn-nhân.
- Ônghãy giúp Phạm chí này cùng biện thức ăn.
Thích-đề-hoàn-nhânbạch Phật:
- Xinvâng, Thế Tôn!
Bấygiờ Tỳ-sa-môn Thiên vương cách Phật chẳng xa, dẫn các chúngquỷ thần đông không tính kể, từ xa quạt Thế Tôn. Thích-đề-hoàn-nhânbảo Tỳ-sa-môn Thiên vương rằng:
- Ôngcũng nên giúp Phạm chí này bày biện các thức ăn.
Tỳ-sa-mônđáp:
- Rấttốt Thiên vương!
RồiTỳ-sa-môn Thiên vương đến trước Phật cúi lạy, nhiễuPhật ba vòng, tự ẩn hình và biến thành hình người, lãnhnăm trăm quỷ thần cùng biện thức ăn. Tỳ-sa-môn Thiên vươngcùng dạy các quỷ thần:
- CácÔng mau đến rừng Chiên-đàn, lấy Chiên-đàn bỏ vào bếpsắt.
Cónăm trăm quỷ thần ở trong đó làm thức ăn. Khi ấy, Thích-đề-hoàn-nhânbảo Thiên tử Tự Tại:
- Hômnay Tỳ-sa-môn đã làm bếp sắt cho Phật và Tỳ-kheo Tăng dùngcơm. Nay Ông hãy hóa làm giảng đường để Phật và Tỳ-kheoTăng dùng cơm trong đó.
Thiêntử Tự Tại đáp:
- Việcnày rất đẹp.
Khiấy Thiên tử Tự Tại nghe lời Thích-đề-hoàn-nhân, hóa ramột giảng đường bảy báu, cách thành La-duyệt không xa.Bảy báu là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, mã não, xích châu,xà cừ. Lại hóa làm bốn bậc cấp vàng, bạc, thủy tinh,lưu ly. Trên bậc thềm vàng hóa làm cây bạc, trên bậc thềmbạc hóa làm cây vàng, rễ vàng, cọng vàng, cành vàng, lávàng. Nếu ở trên bậc vàng, hóa làm lá bạc, cành bạc. Trênbậc thủy tinh hóa làm cây lưu ly; cũng đủ thứ loại khôngthể tính kể. Lại lấy đủ thứ báu chất trong đó. Lạilấy bảy báu trùm lên trên, chung quanh bốn mặt treo các linhvàng tốt. Các linh đó đều phát ra tám thứ âm thanh. Lạihóa làm sàng tòa tốt trải các nệm tốt, treo cờ kết tủa,lọng dù, hiếm có ở đời. Bấy giờ dùng Ngưu-đầu-chiên-đànđốt lửa nấu thức ăn. Quanh thành La-duyệt mười hai do-tuầnmùi hương xông lên đầy khắp. Vua nước Ma-kiệt bảo cácquần thần:
- Tatừ lúc sanh trưởng trong thâm cung chưa hề nghe mùi hươngnày. Bên thành La-duyệt do đâu nghe mùi hương thơm này?
Quầnthần tâu vua:
- Ðâylà trong nhà bếp của Phạm chí Kê Ðầu. Mà hương Chiên-Ðàncủa Trời là điềm lành ứng hiện.
VuaTần-bà-sa-la dạy các quần thần:
- Mausửa soạn xe kiệu, ta muốn đến chỗ Thế Tôn hỏi thăm duyênnày.
Cácquần thần đáp vua:
- Xinvâng, Ðại vương!
(VuaTần-bà-sa-la liền đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy đứng mộtbên). Bấy giờ Quốc vương thấy trong nhà bếp sắt này cónăm trăm người làm thức ăn, thấy rồi liền bảo:
- Ðâylà ai làm thức ăn uống?
Cácquỷ thần dùng hình người đáp:
- Phạmchí Kê Ðầu thỉnh Phật và Tỳ-kheo Tăng cúng dường.
QuốcVương lại thấy ở xa có giảng đường cao rộng, liền hỏingười hầu:
- Ðâylà ai tạo giảng đường mà xưa chưa có, ai tạo ra?
Quầnthần đáp:
- Chẳngbiết duyên này.
Khiấy vua Tần-bà-sa-la nghĩ rằng: "Nay ta đến chỗ Thế Tônhỏi nghĩa này, vì Phật Thế Tôn không nghĩa gì chẳng biết,không việc gì chẳng thấy".
Bấygiờ vua Tần-bà-sa-la nước Ma-kiệt đến chỗ Thế Tôn cúilạy rồi ngồi một bên. Vua Tần-bà-sa-la bạch Phật:
- Ngàyxưa chẳng thấy giảng đường cao rộng này, mà hôm nay lạithấy. Ngày xưa chẳng thấy nhà bếp sắt này, hôm nay lạithấy. Dùng vật gì và do ai biến ra?
ThếTôn bảo:
- ÐạiVương nên biết! Ðây là Tỳ-sa-môn Thiên vương tạo nhà bếp,Thiên tử Tự Tại tạo giảng đường này.
Vuanước Ma-kiệt ở trên chỗ ngồi, buồn khóc lẫn lộn, chẳngthể nín được. Thế Tôn bảo:
- Ðạivương! Cớ sao buồn khóc đến thế?
VuaTần-bà-sa-la bạch Phật:
- Chẳngdám buồn khóc, chỉ nghĩ đến nhân dân đời sau chẳng gặpđược bậc Thánh ra đời. Người đời sau bỏn xẻn, đắmtrước tài vật chẳng có oai đức, còn chẳng nghe đượctên của báu vật kỳ lạ này, huống nữa là thấy sao? Naynhờ ơn Như Lai mà có sự biến hóa lạ lùng này xuất hiệnở đời. Thế nên con buồn khóc.
ThếTôn bảo:
- Ðờitương lai, Quốc vương và nhân dân thực chẳng thấy sự biếnhóa này.
Bấygiờ Thế Tôn thuyết pháp cho Quốc vương, khiến phát tâmhoan hỉ. Vua nghe pháp rồi liền từ chỗ ngồi đứng lên đi.Tỳ-sa-môn Thiên vương ngay ngày ấy bảo Phạm chí Kê Ðầu:
- Ôngđưa tay phải ra.
Kằầu liền xòe tay phải. Tỳ-sa-môn Thiên vương trao cho thoivàng rồi bảo:
- Ôngđem thoi vàng này ném xuống đất!
Phạmchí liền ném xuống đất bèn thành trăm ngàn lượng vàng.Thiên vương Tỳ-sa-môn bảo:
- Ôngđem thoi vàng này vào trong thành mua các thứ thức ăn uốngđem đến đây.
Phạmchí vâng lời Thiên vương liền đem vàng này vào thành muacác thức ăn uống đem đến nhà bếp. Khi ấy Tỳ-sa-môn Thiênvương tắm rửa cho Phạm chí, cho mặc các thứ y phục, taycầm lư hương dạy bạch Phật.
- Giờđã đến, nay đã đúng giờ. Mong Thế Tôn chiếu cố.
Khiấy Phạm chí vâng lời tay bưng lư hương mà bạch:
- Ðãđến giờ, cúi mong chiếu cố.
ThếTôn biết đã đến giờ, đắp y, ôm bát dẫn các chúng Tỳ-kheođi đến giảng đường, tuần tự ngồi. Và chúng Tỳ-kheo-nicũng tuần tự ngồi. Phạm chí Kê Ðầu thấy thức ăn rấtnhiều mà chúng Tăng lại ít, đi đến trước bạch Thế Tôn:
- Hômnay thức ăn uống rất là phong phú mà Tỳ-kheo Tăng ít, chẳngrõ phải thế nào?
ThếTôn bảo:
- Phạmchí! Nay Ông tay cầm lò hương lên trên đài cao hướng vềÐông, Tây, Nam, Bắc rồi nói rằng: 'Các đệ tử của PhậtThích-ca-văn được sáu thần thông, lậu tận A-la-hán, tậphọp hết ở giảng đường này'.
Phạmchí bạch:
- Xinvâng, Thế Tôn!
Phạmchí theo lời Phật dạy liền lên trên lầu, thỉnh các bậcA-la-hán lậu tận. Khi ấy, phương Ðông có hai vạn một ngànA-la-hán, từ phương Ðông đến giảng đường này; phươngNam hai vạn một ngàn; phương Tây hai vạn một ngàn; phươngBắc hai vạn một ngàn A-la-hán tụ tập tại giảng đườngnày. Bấy giờ, trên giảng đường có tám vạn bốn ngàn A-la-hántụ tập một chỗ. Vua Tần-bà-sa-la đem quần thần đến choThế Tôn cúi lạy và lễ các Tỳ-kheo Tăng. Khi ấy, Phạm chíKê Ðầu thấy Tỳ-kheo Tăng rồi, vui mừng hớn hở không thểkềm nổi, lấy đồ vật đựng thức ăn cúng dường cơm Phậtvà Tỳ-kheo Tăng, tự tay châm chước không nề mỏi mệt, nhưngvẫn còn thừa thức ăn. Phạm chí Kê Ðầu đến trước bạchđức Thế Tôn:
- Naycúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng mà vẫn còn dư thức ăn.
ThếTôn bảo:
- NayÔng nên thỉnh Phật và Tỳ-kheo Tăng cúng dường bảy ngày.
Phạmchí đáp:
- Xinvâng, Cù-đàm!
Khiấy Phạm chi Kê Ðầu đến trước quỳ thẳng bạch Thế Tôn:
- Naycon xin thỉnh Phật và Tỳ-kheo Tăng để cúng dường bảy ngày;con sẽ cung cấp y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốcmen.
ThếTôn im lặng nhận lời thỉnh. Khi ấy, trong đại chúng cóTỳ-kheo-ni tên Xá-cưu-lợi. Tỳ-kheo-ni bạch Phật:
- Naycon trong lòng sanh niệm, có đệ tử của Phật Thích-ca-văn,lậu tận A-la-hán nào không tụ tập ở đây chăng? Và dùngthiên nhãn xem phương Ðông, phương Tây, phương Nam, phươngBắc thay đều xem xét hết, không ai mà không đến, thảy đềuvân tập cả. Nay đại hội này thuần là La-hán chân nhânvân tập.
ThếTôn bảo:
- Ðúngthế! Xá-cưu-lợi. Ðúng như lời Ngươi. Ðại hội này toànlà chân nhân Ðông, Tây, Nam Bắc đều tụ tập.
Bấygiờ Thế Tôn đem nhân duyên này bảo các Tỳ-kheo:
- CácThầy có thấy trong hàng Tỳ-kheo-ni, người có thiên nhãn đệnhất là Tỳ-kheo-ni Xá-cưu-lợi chăng?
Phạmchí Kê Ðầu trong bảy ngày cúng dường, thánh chúng y phục,thức ăn uống, giường nằm và thuốc men; lại dùng hoa hươngrải trên Như Lai. Khi ấy, hoa này ở trên không hóa thành đàigiao lộ bảy báu. Phạm chí thấy đài giao lộ xong, vui mừngnhảy nhót không thể tự kềm, đến trước bạch Phật:
- Cúimong Thế Tôn cho phép con nhập đạo làm Sa-môn.
Bấygiờ Phạm chí Kê Ðầu liền được hành đạo, các căn tịchtĩnh, tự tu chí mình, trừ bỏ thùy miên; nếu mắt thấy sắccũng không khởi tưởng niệm; nhãn căn cũng không có ác tưởngrong ruỗi các niệm, mà biết phòng hộ nhãn căn; nếu tai nghetiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi biết vị, thân biết xúc chạm,chẳng khởi tưởng xúc chạm; ý biết pháp cũng thế. Lúcấy Phạm chí liền diệt được năm kiết sử che đậy tâmngười, khiến người không trí tuệ, cũng không có ý sáthại, mà tịnh tâm mình, không giết, không nghĩ giết, khôngbảo người giết, tay không cầm dao gậy, khởi lòng nhân từvới tất cả chúng sanh; trừ bỏ tâm không cho mà lấy, chẳngkhởi tâm trộm mà tịnh tâm mình, thường có tâm bố thí,đối với tất cả chúng sanh cũng khiến không trộm cắp;mình không dâm dật, cũng lại dạy người khiến không dâmdật, hàng tu Phạm hạnh, thanh tịnh không tỳ vết, ở trongphạm hạnh mà tịnh tâm mình; cũng không nói hư vọng, cũngkhông dạy người khiến vọng ngữ; hằng nghĩ chí thành, khôngcó dối trá cuống hoặc người đời, nơi ấy tịnh tâm mình;lại không hai lưỡi, cũng không dạy người khiến hai lưỡi;nếu nghe lời ở đây, không truyền chỗ khác; nếu nghe lờichỗ khác, không truyền đến đây, ở đây tịnh ý mình.
Ðốivới sự ăn uống, vị ấy biết đủ, không đắm mùi vịchẳng để ý vẻ tươi tốt, không cần mập trắng, chỉ muốngiữ thân thể được toàn mạng; muốn trừ cảm thọ cũ,khiến cái mới chẳng sanh; đắc đạo tu hành, ở mãi đấtvô vi. Ví như nam nữ dùng cao sáp bôi lên vết thương (mụnnhọt), chỉ muốn trừ cho lành. Ðây cũng như thế. Sở dĩđối với thức ăn, vị ấy biết đủ là muốn khiến chosự cảm thọ cũ được trừ lành, cái mới chẳng sanh; hoặclại khi ấy thấu hiểu, hành đạo không mất thời tiết,chẳng mất hành Ba mươi bảy đạo phẩm; hoặc ngồi hoặcđi trừ khử thùy miên cái; hoặc lúc đầu hôm, hoặc ngồihoặc đi, trừ khử thùy miên cái, hoặc giữa đêm nằm hôngphải sát đất, hai chân chồng lên nhau, cột ý ở chỗ sángsuốt. Vị ấy lại lúc cuối đêm hoặc ngồi, hoặc kinh hànhmà tịnh ý mình.
Khiđó ăn uống, vị ấy biết đủ, kinh hành không mất thờitiết, trừ khử dục tưởng bất tịnh, không có các hạnhác mà nhập Sơ thiền, có giác có quán dừng niệm nương sựhoan lạc mà vào Nhị thiền; không có lạc, xả niệm thanhtịnh, tự biết thân có lạc, chỗ chư Hiền cầu, xả niệmthanh tịnh vào Tam thiền. Vị ấy khổ vui đã diệt, khôngcòn sầu lo, không khổ không vui, xả niệm thanh tịnh vào Tứthiền.
Vịấy dùng tâm tam-muội, thanh tịnh không tỳ vết, cũng đượckhông chỗ sợ, lại được tam muội tự nhớ việc vô sốđời; vị ấy liền nhớ việc quá khứ hoặc một đời, haiđời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươiđời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, mộttrăm đời, ngàn đời, vạn đời, mấy ngàn vạn đời, kiếpthành, kiếp hoại, kiếp thành hoại: 'Ta từng sanh ở chỗkia, họ gì tên gì, ăn thức ăn như thế, chịu khổ vui nhưthế, thọ mạng dài ngắn, chết đây sanh kia, chết kia sanhđây', nhân duyên gốc ngọn đều rõ biết hết.
Vịấy lại dùng tâm tam muội, thanh tịnh không tỳ vết, đượckhông sợ, xem thấy chúng sanh, người sanh, người chết; lạidùng thiên nhãn xem chúng sanh người sanh, người chết, nẻolành nẻo dữ, sắc lành, sắc ác, hoặc đẹp, hoặc xấu,đi theo loại nào, thảy đều biết hết. Hoặc có chúng sanhthân, miệng, ý, làm ác, phỉ báng Hiền Thánh tạo gốc nghiệptà, thân hoại mạng chung sanh trong địa ngục. Hoặc lại cóchúng sanh thân, miệng, ý làm lành, không hủy báng Hiền Thánh,thân hoại mạng chung sanh chỗ lành lên Trời. Lại dùng thiênnhãn thanh tịnh xem chúng sanh hoặc đẹp, hoặc xấu, nẻo lành,nẻo dữ, sắc lành, sắc ác thảy đều biết cả, đượckhông sợ. Lại tâm bố thí dứt hết các lậu.
Lạiquán khổ này, như thật mà biết. Ðây là Khổ, đây là Khổtập, Khổ diệt, Khổ xuất yếu, như thật mà biết. Vị ấyquán như thế rồi, tâm dục lậu, tâm hữu lậu, tâm vô minhlậu được giải thoát. Ðã được giải thoát liền đượctrí giải thoát, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việclàm đã xong, không còn tái sanh nữa, như thật mà biết. Bấygiờ Phạm chí Kê Ðầu liền thành A-la-hán.
Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
6.Tôi nghe như vầy:
Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Còộc.
Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Thếgian có năm việc tuyệt chẳng thể được. Thế nào là năm?Vật đáng mất muốn cho không mất, điều này chẳng thểđược; pháp diệt tận muốn cho không tận, điều này chẳngthể được; phàm pháp già muốn cho không già, điều này chẳngthể được; phàm pháp bệnh muốn cho không bệnh, điều nàychẳng thể được. Ðó là, này Tỳ-kheo! Có năm việc nàytuyệt chẳng thể được. Nếu Như Lai ra đời hay không rađời, thế giới này hằng trụ như cũ, mà không hư hại cótiếng mất diệt, sanh, lão, bệnh tử; hoặc sanh, hoặc chếtđều trở về gốc. Ðó là, này Tỳ-kheo! Có năm việc khóđược này. Hãy cầu phương tiện tu hành năm căn. Thế nàolà năm? Nghĩa là tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn,và tuệ căn. Ðó là Tỳ-kheo hành năm căn này rồi liền thànhTu-đà-hoàn, hướng Tư-đà-hàm, chuyển tiến thành Tư-đà-hàm,chuyển tiến diệt năm kiết sử thành A-na-hàm, ở đó nhậpNiết-bàn, không trở lại đời này nữa, chuyển tiến hữulậu tận thành vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát,tự thân chứng được và tự du hóa, không còn thọ thai nữa,như thật mà biết. Nên tìm phương tiện trừ năm việc trước,tu hành năm căn. Như thế, Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
7.Tôi nghe như vầy:
Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Còộc.
Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Naycó năm người chẳng thể trị liệu. Thế nào là năm? Ngườixiểm nịnh, không thể trị liệu; người gian tà, không thểtrị liệu; người nói ác không thể trị liệu; người tậtđố không thể trị liệu; người phản bội không thể trịliệu.
Ðólà này Tỳ-kheo! Có năm người này chẳng thể trị liệu.
Bấygiờ Thế Tôn liền nói kệ này:
Ngườigian tà ác khẩu,
Tậtđố, người phản bội,
Ngườinày không thể trị,
Bịngười trí từ bỏ.
Thếnên, các Tỳ-kheo! Thường nên học chính ý từ bỏ tật đố,tu hành oai nghi, nói ra đúng pháp. Nên biết đền ơn, nghĩđến công nuôi dưỡng, ơn nhỏ còn chẳng quên, huống nữalà ơn lớn. Chớ ôm lòng xan tham, lại cũng chẳng nên tựkhoe mình, chẳng chê bai người khác. Như thế, Tỳ-kheo, nênhọc điều này.
Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
8.Tôi nghe như vầy:
Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Còộc.
Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Ngàyxưa Thích-đề-hoàn-nhân bảo Trời Ba mươi ba:
'Nếulúc chư Hiền cùng A-tu-la chiến đấu, nếu A-tu-la chẳng bằng,chư Thiên thắng được, các Ông hãy bắt A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-latrói năm vòng mang đến đây!'
Lúcđó A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la lại bảo các A-tu-la:
- 'CácKhanh hôm nay cùng chư Thiên chiến đấu, nếu thắng đượchãy trói Thích-đề-hoàn-nhân đưa đến đây!'
Tỳ-kheonên biết! Bấy giờ hai bên đánh nhau, chư Thiên thắng, A-tu-lathua, Trời Ba mươi ba bắt A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la trói lạiđem đến chỗ Thích-đề-hoàn-nhân, đặt ngoài trung môn, tựquán sát trói đủ năm vòng. Bấy giờ vua A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-laliền nghĩ rằng: 'Chư Thiên này có pháp chính đáng, còn A-tu-lahành phi pháp. Nay ta chẳng ưa làm A-tu-la'. Ngay đó vua liềnở trong cung các vị Trời. Khi đó, A-tu-la vương sanh niệmnày: 'Pháp chư Thiên chánh đáng, A-tu-la phi pháp. Tôi muốntrụ nơi đây'.
Nghĩnhư vậy rồi, vua A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-la liền biết thânmình chẳng còn bị trói, vui thú ngũ dục. Nếu vua A-tu-la Tỳ-ma-chất-đa-lasanh niệm này: 'Chư Thiên phi pháp, pháp A-tu-la chánh đáng.Ta không cần Trời Ba mươi ba này, muốn trở về cung A-tu-la',thì khi ấy thân vua A-tu-la liền bị trói năm vòng, ngũ dụcvui thú tự nhiên tiêu diệt.
Tỳ-kheonên biết, sự trói buộc mau chóng không gì hơn việc này.Bị ma trói buộc cũng mau hơn thế. Nếu khởi kiết sử, thìliền bị ma trói buộc; động thì ma trói buộc, không độngthì không bị ma trói buộc. Thế nên, các Tỳ-kheo, nên cầuphương tiện khiến tâm chẳng bị trói. Hãy ưa chỗ nhàn vắng.Sở dĩ như thế là vì các kiết sử này là cảnh giới ma.Nếu các Tỳ-kheo ở trong cảnh giới ma, thì trọn không thểgiải thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết; chẳng thoát sầu,lo, khổ, não. Nay Ta nói về mé khổ này. Nếu lại có Tỳ-kheotâm không di động, chẳng dính mắc các kiết sử, thì liềnthoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, sầu, lo, khổ, não. Nay Tathuyết mé khổ này. Thế nên, các Tỳ-kheo! Nên học như vầy:không có kiết sử thì vượt ra khỏi cảnh giới ma. Như thế,các Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
9.Tôi nghe như vầy:
Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Còộc.
Bấygiờ Tôn giả A-nan đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy đứng mộtbên, rồi ngài A-nan bạch Thế Tôn rằng:
- Phàmnói là tận, gọi là pháp gì nói là tận?
ThếTôn bảo:
- A-nan!Sắc vô vi nhơn nơi duyên mà có tên này. Vô dục, vô vi gọilà pháp diệt tận. Kia tận gọi là diệt tận. Thọ, tưởng,hành thức vô vi, vô tác đều là pháp môn diệt, vô dục vôô nhiễm, kia diệt tận nên gọi là diệt tận.
A-nannên biết! Năm thạnh ấm này vô dục, vô tác là pháp môndiệt, kia diệt tận gọi là diệt tận. Năm thạnh ấm nàytrọn đã diệt tận, lại không còn sanh nữa, nên gọi làdiệt tận.
Bấygiờ Tôn giả A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
*
10.Tôi nghe như vầy:
Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà vườn Cấp Còộc.
Bấygiờ Phạm chí Sanh Lậu đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồimột bên. Khi ấy, Phạm chí Sanh Lậu bạch Thế Tôn:
- Thếnào Cù-đàm? Có nhân duyên gì? Có hạnh xưa nào khiến chonhân dân này có tận, có diệt, có giảm bớt? Xưa là thànhquách, ngày nay đã tan hoại; xưa có nhân dân, ngày nay hoangvắng?
ThếTôn bảo:
- Phạmchí nên biết! Do nhân dân này hành phi pháp, nên khiến xưacó thành quách, ngày nay tiêu diệt, xưa có nhân dân ngày nayhoang vắng, đều do nhân dân xan tham, kiết phược, quen hànhái dục mà gây nên, khiến gió mưa không đúng thời, mưa đãkhông đúng thời, trồng trọt rễ không tăng trưởng. Trongđó, nhân dân chết đầy đường.
Phạmchí nên biết, do nhân duyên này, khiến nước bị hủy hoại,dân không đông đúc.
Lạinữa, Phạm chí, nhân dân hành phi pháp, khiến có sấm, chớp,sét giật tự nhiên ứng hiện; trời giáng mưa đá, hư hoạimầm sống. bấy giờ nhân dân chết chóc không đếm nổi.
Lạinữa, Phạm chí, nhân dân hành phi pháp, cạnh tranh lẫn nhau,hoặc lấy tay đấm, thêm gạch đá ném nhau, mỗi người đềután mạng.
Lạinữa, Phạm chí, nhân dân kia đã cạnh tranh nhau chẳng yênở; quốc chủ không an, mỗi bên hưng binh công phạt lẫn nhau,đến nỗi đại chúng chết không kể, hoặc bị chết bởido đao, hoặc chết bởi giáo, tên. Như thế, Phạm chí! Do nhânduyên này, khiến dân giảm thiểu, chẳng đông đúc nữa.
Lạinữa, nhân dân hành phi pháp, nên khiến thần kỳ không giúpđỡ cho được tiện lợi, hoặc gặp nguy khốn, tật bệnh,liệt giường, người lành bệnh ít, người bệnh dịch chếtnhiều. Ðó là, này Phạm chí! Do nhân duyên này khiến dângiảm thiếu không được đông đúc.
Bấygiờ Phạm chí Sanh Lậu bạch Thế Tôn:
- Cù-đàm!Ngài nói thật thích thay! Nói nghĩa giảm thiếu của ngườixưa. Thật như lời Như Lai dạy, xưa có thành quách, hôm naytiêu diệt; xưa có nhân dân, hôm nay hoang vắng. Sở dĩ nhưthế, và có phi pháp, liền sanh keo kiệt, tật đố; đã sanhkeo kiệt, tật đố, liền sanh nghiệp tà; đã sanh nghiệp tànên khiến trời mưa không đúng thời, ngũ cốc chẳng chín,nhân dân chẳng mạnh, nên khiến phi pháp lưu hành, trời giángtai biến làm hư hoại mầm mống. Ðó là do nhân dân hành phipháp, dính mắc tham lam, keo kiệt, tật đố. Khi đó, Quốcvương chẳng yên, mỗi bên hưng binh, công phạt lẫn nhau, ngườichết rất nhiều, nên khiến quốc độ hoang sơ, nhân dân lytán. Hôm nay, Thế Tôn nói rất lành, thích thay! Do phi phápđưa đến tai họa này; cho đến bị người khác bắt, đoạnđứt mạng sống. Do phi pháp nên liền sanh tâm trộm, đã sanhtâm trộm, sau bị vua giết; đã sanh tà niệm thì phi nhân đượctiện lợi. Do nhân duyên này liền bị mạng chung, nhân dângiảm bớt, nên khiến không có thành quách để ở.
Cù-đàm!Hôm nay Ngài nói đã quá nhiều. Ví như người gù được thẳng,người mù được mắt, trong tối được sáng. Ngài làm mắtcho nguòi không có mắt. Nay Sa-môn Cù-đàm dùng vô số phươngtiện thuyết pháp. Nay tôi lại xin quy y Phật, Pháp, Tăng, mongđược làm Ưu-bà-tắc, suốt đời không dám sát sanh nữa.Sa-môn Cù-đàm, nếu thấy tôi cỡi voi, cỡi ngựa, cũng xinnhận sự cung kính của tôi. Sở dĩ như thế, bởi vì tôivua Ba-tư-nặc, vua Tần-bà-sa-la, vua Ưu Ðiền, vua Ác Sanh, vuaƯu-đà-diện nhận phước của hạm (Bà-la-môn). Tôi sợ thấtđức. Nếu tôi vạch bày vai phải, cúi mong Thế Tôn nhậntôi lễ bái. Nếu tôi đang đi bộ, gặp Cù-đàm đến, tôisẽ bỏ giày, cúi mong Thế Tôn nhận tôi lễ bái.
Bấygiờ Thế Tôn nghiêm trang chấp nhận. Phạm chí Sanh Lậu hoanhỉ vui mừng, chẳng thể kềm được, tiến đến trước Phậtbạch:
- Naycon quy y Sa-môn Cù-đàm một lần nữa. Cúi mong Thế Tôn nhậncon làm Ưu-bà-tắc.
Bấygiờ Thế Tôn dần dần thuyết pháp cho ông, khiến phát tâmhoan hỉ. Phạm chí nghe pháp xong, liền từ chỗ ngồi đứngdậy lui đi.
Bấygiờ Phạm chí Sanh Lậu nghe Phật dạy xong, hoan hỉ vâng làm.